Bản án 63/2017/HSST ngày 25/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 63/2017/HSST NGÀY 25/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 25 tháng 10 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 62/2017/HSST ngày 04/10/2017 đối với:

Bị cáo: Vũ Tiến D, sinh năm 1986, tại xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình.

HKTT và nơi ở: Thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; con ông Vũ Văn V và bà Vũ Thị H; tiền sự: Không; tiền án: Không; Nhân thân: Ngày 31/7/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải xử phạt 30 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, đến 30/4/2014 chấp hành xong về địa phương sinh sống, đã được xóa án tích; bị tạm giữ từ ngày 12/8/2017 đến ngày 15/8/2017 chuyển tạm giam đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Bị cáo được dẫn giải, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ 50 phút ngày 12/8/2017 tại khu vực bến đò Cồn nhì thuộc địa phận thôn Nam Hòa , xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, Công an huyện Kiến Xương bắt quả tang, thu giữ tại bàn tay trái của D đang cầm 02 gói, bên ngoài gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong chứa Hêrôin có trọng lượng 0,4169 gam. D khai nhận vừa đi mua ở bên chợ Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định về, mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt giữ.

* Vật chứng của vụ án: Công an huyện Kiến Xương đã lập biên bản thu giữ của D 02 gói bên ngoài gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong chứa Hêrôin có trọng lượng 0,4169 gam.

* Kết quả giám định về 02 gói chất bột màu trắng đục dạng cục thu giữ của Dũng: Bản Kết luận giám định số 340/KLGĐ - PC 54 ngày 12/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định thu của Vũ Tiến D là ma túy, loại Heroine (hêrôin) có trọng lượng 0,4169gam; hoàn trả giám định 0,3032gam.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không có ý kiến, khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình; bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội cải tạo, sửa chữa sớm trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Tại bản Cáo trạng số 63/KSĐT - ngày 03/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đã truy tố Vũ Tiến D về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa 14. Tuyên bố bị cáo Vũ Tiến D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vũ Tiến D mức án từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Áp dụng điều 41 của Bộ luật hình sự và Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu huỷ số Hêrôin thu giữ của Vũ Tiến D còn lại sau giám định.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Kiến Xương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Tiến D như trong bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ:

+ Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình lập hồi 6 giờ 00 phút ngày 12/8/2017 tại khu vực ngã tư đường ra đò Cồn Nhì thuộc thôn Nam Hòa, xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình;

+ Biên bản quản lý và niêm phong vật chứng thu giữ của Vũ tiến D do Công an huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình lập hồi 07 giờ 10 phút ngày 12/8/2017;

+ Biên bản ghi lời khai của người làm chứng là bà Hoàng Thị Th, ông Bùi Văn H và anh Đỗ Văn Ch đều trú tại thôn N, xã H, huyện K.

+ Bản Kết luận giám định số 340/KLGĐ - PC 54 ngày 12/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.

Xét thấy các chứng cứ nêu trên phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo Vũ tiến D về địa điểm, thời gian, hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Từ những căn cứ nêu trên có đủ cở sở xác định: Khoảng 05 giờ 50 phút ngày 12/8/2017 tại khu vực bến đò Cồn Nhì thuộc địa phận thôn Nam Hòa , xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, Vũ Tiến D đã có hành vi tàng trữ 02 gói Hêrôin có trọng lượng 0,4169 gam.

Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Vũ Tiến D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 .

Bộ luật hình sự năm 1999: Tại Điều 194: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt ma tuý, quy định:

"1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ một năm đến năm năm".

Theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 thì các quy định có lợi được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật có hiệu lực thi hành.

Bộ luật hình sự năm 2015:

Tại Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy đinh:

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về hình phạt đối với tội:

 “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đã giảm so với Bộ luật hình sự năm 1999.

Do vậy cần áp dụng quy định có lợi cho bị cáo theo các hướng dẫn trên. [4] Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người đã thành niên, là chủ thể có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Mặc dù nhận thức được ma túy là chất độc hại gây hiểm họa cho toàn nhân loại, sử dụng ma túy sẽ làm sức khỏe bị kiệt quệ, ảnh hưởng đến kinh tế, hạnh phúc gia đình, đồng thời là điều kiện lây nhiễm HIV/AIDS, ngoài ra ma túy còn là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo biết Hêrôin là loại chất ma túy mà nhà nước cấm tàng trữ, sử dụng, mua bán nhưng đã bất chấp pháp luật, bị cáo đã tàng trữ để sử dụng. Chính vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự, với mức án tương xứng, áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời còn là bài học để răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ do đã thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

 [6] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định.

 [7] Về xử lý vật chứng: Cần phải tịch thu tiêu huỷ: 0,3032gam Hêrôin thu giữ của Vũ Tiến D hoàn lại sau giám định đựng trong 01phong bì niêm phong số 340/KLGĐ ngày 12/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình ghi: “ Hoàn trả mẫu vật gửi giám định thu giữ của Vũ Tiến D, sinh năm 1986, trú tại thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình”.

(Vật chứng trên đã được Cơ quan điều tra Công an huyện Kiến Xương thu giữ, chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương quản lý).

[8] Về án phí: Áp dụng Điều 98, 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Vũ Tiến D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Vũ Tiến D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Vũ Tiến D 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 12 tháng 8 năm 2017).

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ: 0,3032 gam Hêrôin thu giữ của Vũ Tiến D hoàn lại sau giám định đựng trong 01phong bì niêm phong số 340/KLGĐ ngày 12/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, ghi: “ Hoàn trả mẫu vật gửi giám định thu giữ của Vũ Tiến D, sinh năm 1986, trú tại thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình”.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 98, 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Vũ Tiến D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Tiến D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/10/2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 63/2017/HSST ngày 25/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:63/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;