Bản án 629/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH - TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 629/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 10 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 459/2019/TLST-HNGĐ ngày 25/6/2019 về “Tranh chấp Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 143/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/8 /2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 81/QĐ-HPT ngày 29/8/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Trần Thị L, sinh năm 1993

Địa chỉ: ấp P A, xã P Q, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang

2.Bị đơn: Nguyễn Ngọc Q sinh năm 1993

Địa chỉ: ấp M T, xã S T, Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

(Chị L có mặt tại phiên toà, anh Q vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn Chị L trình bày: Chị L và anh Q chung sống vợ chồng vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Song Thuận, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 33 ngày 15/7/2014. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn và đến cuối năm 2017 thì mâu thuẫn trầm trọng do anh Q thường xuyên gây nợ nần, không chăm lo cho gia đình,vợ chồng bất đồng quan điểm hiện đã ly thân từ cuối năm 2017 đến nay. Do mâu thuẫn kéo dài mặc dù cố gắng hàn gắn nhiều lần nhưng không có kết quả, tình cảm vợ chồng không còn nên Chị L xin Tòa án giải quyết ly hôn với anh Q.Về con chung có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Gia H sinh ngày 20/7/2014, Chị L xin trực tiếp nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

* Bị đơn anh Nguyễn Ngọc Q vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, các buổi hòa giải và tại phiên tòa, không có bản tự khai cũng như ý kiến trình bày đối với yêu cầu ly hôn và nuôi con chung của Chị L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra cũng như tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Chị L và anh Q kết hôn vào năm 2014,có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Song Thuận, huyện Châu Thành,tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 33 ngày 15/ 7/2014. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn và đến cuối năm 2017 thì mâu thuẫn trầm trọng nguyên nhân theo Chị L trình bày là do anh Q thường xuyên gây nợ nần, không chăm lo cho gia đình, vợ chồng bất đồng quan điểm hiện đã ly thân từ cuối năm 2017 đến nay. Do thấy không còn tình cảm nên Chị L làm đơn xin ly hôn với anh Q. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa Chị L và anh Q là hôn nhân hợp pháp. Nay, Chị L xin ly hôn với anh Q nên được xem xét giải quyết theo quy định Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình.

Xét yêu cầu xin ly hôn của Chị L: tại phiên tòa, Chị L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Q lý do giữa Chị L và anh Q phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Q thường xuyên gây nợ nần, không chăm lo cho gia đình, vợ chồng bất đồng quan điểm hiện đã ly thân từ cuối năm 2017 đến nay,giữa hai vợ chồng không còn tình cảm, không có khả năng hàn gắn. Xét thấy cuộc sống hôn nhân giữa Chị L và anh Q đã có phát sinh mâu thuẫn từ năm 2017 và đã đến mức trầm trọng, hiện anh chị đã ly thân từ cuối năm 2017 đến nay, Chị L sống tại xã Phú Quý, thị xã Cai Lậy còn anh Q sống tại xã Song Thuận, Châu Thành. Anh Q trong suốt quá trình giải quyết của Tòa án từ giai đoạn hòa giải cho đến khi xét xử đều vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu ly hôn và xin nuôi con chung của Chị L chứng tỏ anh Q không còn tình cảm và không quan tâm đến Chị L, cũng không có ý kiến hay biện pháp gì để hàn gắn tình cảm với Chị L. Do đó có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa Chị L và anh Q là trầm trọng, không có khả năng hàn gắn, nên xét thấy có cơ sở chấp nhận yêu cầu ly hôn của Chị L theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: có 01 cháu tên Nguyễn Ngọc Gia H sinh ngày 20/7/2014 Chị L xin trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.Xét yêu cầu nuôi con chung của Chị L là có căn cứ đúng qui định,vì hiện tại cháu H đang sống với Chị L, đi học tại Trường mầm non Phú Quý, thị xã Cai Lậy,có hộ khẩu chung với Chị L, từ khi ly thân do chị trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến nay, Chị L cũng có nghề nghiệp là kinh doanh phân bón thực vật và thu nhập khoảng 10.000.000 đồng/tháng đủ điều kiện chăm sóc con chung,nên cần giao cháu H cho Chị L trực tiếp nuôi dưỡng là đảm bảo điều kiện cháu H phát triển toàn diện về tinh thần và thể chất và không làm ảnh hưởng cuộc sống ổn định của cháu H.Chị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét giải quyết về cấp dưỡng.

Về tài sản chung:Chị L trình bày không có, không yêu cầu Tòa án xem xét do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Chị L trình bày không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu: Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn và bị đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án,đề nghị áp dụng các Điều 56,81,82 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị L về việc xin ly hôn với anh Q, về con chung đề nghị giao con chung là cháu H cho Chị L trực tiếp nuôi dưỡng, Chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung do không yêu cầu,về tài sản chung và nợ chung không đặt ra xem xét giải quyết do không yêu cầu, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân gia đình;

- Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Xử:

- Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Trần Thị L: cho chị Trần Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc Q

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Gia H sinh ngày 20/7/2014 cho chị Trần Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Nguyễn Ngọc Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn anh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ với số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm Chị L đã nộp theo biên lai thu số 0009943 ngày 24/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành nên xem như Chị L đã nộp xong án phí.

Chị L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Q có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 629/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:629/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;