Bản án 62/2023/HS-ST về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 62/2023/HS-ST NGÀY 17/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 17 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 67/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thanh L, sinh ngày 29/6/1979; tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 87/5 đường C, Phường N, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 117/25 đường C, Phường N, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh S và bà Nguyễn Phong V; tiền án: ngày 29/5/1997 Tòa án nhân dân Quận 1 xử phạt 09 tháng tù về tội “ Cướp giật tài sản của công dân”;

ngày 29/7/2009 Tòa án nhân dân Quận 10 xử phạt 04 năm tù và phạt bổ sung 10.000.000 đồng về tội “Cướp giật tài sản” (trường hợp tái phạm) tại bản án số 120/2009/HSST; tiền sự: Ngày 23/9/2020 Tòa án nhân dân Quận 5 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chấp hành xong vào ngày 28/4/2022. Bị bắt tạm giữ từ ngày 03/02/2023 đến ngày 12/02/2023 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam T30 Công an Thành phố Hồ Chí Minh; ( bị cáo có mặt).

2. Giang H, sinh ngày 23/01/1972; tại Thành phố Hồ Chí Minh ; nơi thường trú: 30/29/7 đường 100 B, Phường B1, Quận M1, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 34/30A đường H1, Phường P, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: không biết chữ ; dân tộc: Hoa; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Hoàng T1 (chết) và bà Giang M2 ; tiền án: không ; tiền sự: không; nhân thân: Ngày 16/3/1990 Tòa án nhân dân Quận 11 xử phạt 09 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản của công dân”; Ngày 30/3/1994 Tòa án nhân dân Quận 11 xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác”; ngày 07/7/2014 Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; ngày 17/12/2015 Tòa án nhân dân Quận 11 xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tổng hợp hình phạt 01 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” của Tòa án nhân dân quận Tân Phú ngày 07/7/2014, buộc chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 năm 06 tháng tù. Bị bắt tạm giữ từ ngày 03/02/2023 đến ngày 12/02/2023 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam T30 Công an Thành phố Hồ Chí Minh; (bị cáo có mặt).

- Người bị hại: Ông Trần Hồng Đ, sinh năm 2004 Hộ khẩu thường trú : 23/39/44 đường H2, phường B2, Quận T1, Tp.HCM Nơi ở hiện tại : A5160/1 QL50, Xã Đ1, Huyện C, Tp.HCM - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Nguyễn Thị Ngọc V1, sinh năm 1967 Địa chỉ :150 đường L2, Khu phố E, Phường A, Tp. M, Tp.HCM 2/ Ông Lê Quốc B3, sinh năm 1958 Địa chỉ : CT/XLCTLN xã V2, huyện T2, Tp.Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 01/02/2023, Nguyễn Thanh L điều khiển xe máy hiệu Attila biển số 52Y4-9168 đến Công viên 23/9, Quận 1 thì gặp N (chưa rõ lai lịch), L rủ N đi mượn tiền để mua ma túy sử dụng thì N đồng ý và lên xe cho L chở đi.

Khi L và N đi đến trước cửa hàng tiện lợi Circle K tại số 45 Cao Thắng, Phường 3, Quận 3 thì nhìn thấy 04 xa máy dựng ở bên hông cửa hàng tiện lợi Circle K, trong đó có chiếc xe máy hiệu Honda Future II biển số 29U4-3128 của anh Trần Hồng Đ không khóa dây xích, không có người trông giữ nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Sau đó, L chở N chạy qua khỏi cửa hàng tiện lợi Circle K khoảng 5m thì dừng xe lại, L nói N đứng chờ để L đi bộ quay lại tìm người quen. Lúc này, L đi bộ đến chiếc xe máy hiệu Honda Future II biển số 29U4-3128 và dùng 02 tay nắm vào 02 tay lái của xe máy lắc cổ xe thì thấy xe máy không khóa cổ nên L dắt bộ xe máy xuống lề đường rồi ngồi lên xe máy dùng 02 chân đẩy xe máy đến chỗ N đang đợi. L kêu N ngồi lên chiếc xe máy hiệu Honda Future II biển số 29U4-3128 do N điều khiển. trên đường đi, N có hỏi L về nguồn gốc chiếc xe máy hiệu Honda Future II biển số 29U4-3128 thì L nói vừa mới trộm cắp được và kêu N đi bán xe với L để lấy tiền mua ma túy sử dụng chung. Sau đó, L gọi điện thoại cho Giang H nói có chiếc xe máy hiệu Honda Future II vừa trộm cắp được muốn bán thì H đồng ý mua và hẹn L tại vòng xoay Lê Đại Hành. Đến khoảng 20 giờ 20 phút cùng ngày, L đẩy xe máy hiệu Honda Future II biển số 29U4- 3128 đến trước số 36-36A AC, Phường 9, quận Tân Bình gặp H và bán chiếc xe máy hiệu Honda Future II biển số 29U4-3128 cho H với giá 2.500.000 đồng. Sau đó, H đem xe máy về nhà số 34/30A HNP, phường PTH, quận Tân Phú cất giữ.

Qua truy xét, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tạm giam đối với Nguyễn Thanh L, Giang H. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3, Nguyễn Thanh L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Giang H khai nhận đã mua tài sản mà L đem bán như trên, H biết rõ tài sản bị can L đem bán cho H là do phạm tội mà có.

Ngoài vụ án xảy ra tại Quận 3, bị can Nguyễn Thanh L còn khai nhận vào khoảng 08 giờ ngày 31/01/2023, Nguyễn Thanh L điều khiển xa máy chở theo N (chưa rõ lai lịch) đến cửa hàng tiện lợi Circle K tại số 103 THL, Phường 11, quận Phú Nhuận trộm cắp 01 xe máy hiệu Wave màu trắng (không nhớ biển số). Sau đó, L và N đem xe máy trộm cắp được đến gần bến xe An Sương, Quận 12 bán cho 01 người đàn ông (không rõ lai lịch). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 đã có Công văn thông báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Phú Nhuận để tiến hành xác minh, điều tra, giải quyết theo thẩm quyền.

Kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐGTS ngày 09/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự Quận 3, kết luận: Xe máy hiệu Honda Future II 125cc màu đỏ đen, biển số 29U4-3128 đã qua sử dụng tại thời điểm tháng 02/2023 trị giá 6.333.000 đồng (Bút lục số 103, 104).

Vật chứng vụ án:

-01 xe máy hiệu Atilla biển số 52X4-9168, số máy VMM9BF-D-022829, số khung RLGH125HD-7D22829. Qua xác minh biển số xe do bà Nguyễn Thị Ngọc V1 (Địa chỉ: 150 đường L2, Khu phố E, Phường A, Tp. M, Tp.HCM) đứng tên chủ sở hữu. Bà Nguyễn Thị Ngọc V1 đã bán nhà đi khỏi địa phương từ năm 2012, hiện nay đi đâu, làm gì không rõ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng chưa có kết quả (Bút lục số 110, 113).

-01 xe máy hiệu Honda Future II biển số 29U4-3128, số máy JC35E-0029755, số khung RLHJC35075Y029669. Qua xác minh biển số xe do ông Lê Quốc B3 (Địa chỉ: CT/XLCTLN xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội) đứng tên chủ sở hữu. Qua tra cứu dữ liệu dân cư quốc gia thì ông Lê Quốc B3 không còn cư trú tại địa chỉ CT/XLCTLN xã V2, huyện T2, Tp.Hà Nội. Hiện nay đi đâu, làm gì không rõ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng chưa có kết quả (Bút lục số 110, 113).

-03 đầu đoản dùng để bẻ khóa (01 đầu đoản dài 10cm, 02 đầu đoản dài 6cm), 01 thanh sắt đoản hình chữ L có phần băng keo màu đen dài 12cm (đã được niêm phong).

-01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, số IMEI 1:355149113441048, số IMEI 2: 355149113441055 đã qua sử dụng.

-01 điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu đen, bị bể màn hình, số IMEI :

359182076670556 đã qua sử dụng.

-01 quần vải màu xám đen, 01 nón bảo hiểm màu trắng xám, vành nón màu đen, 01 giấy đăng ký xe máy biển số 52X4-9168 mang tên Nguyễn Thị Ngọc V1.

-Về yêu cầu dân sự: Anh Trần Hồng Đ yêu cầu nhận lại tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu bồi thường (Bút lục số 196).

Tại bản cáo trạng số 51/CT-VKS-Q3 ngày 24/5/2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Giang H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay :

- Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Người bị hại Anh Trần Hồng Đ yêu cầu bồi thường trị giá tài sản 6.300.000 đồng, bị cáo L đồng ý bồi thường là không trái quy định của pháp luật nghĩ nên chấp nhận.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan : Bà Nguyễn Thị Ngọc V1 và ông Lê Quốc B3 vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đề nghị xử phạt bị cáo L từ 03 (ba) năm tù đến 04 (bốn) năm tù giam; xử phạt bị cáo H từ 01 (một) năm tù đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù giam; Giao cho Cơ quan thi hành án dân sự Quận 3 tìm và giao trả chủ sở hữu hợp pháp 01 xe máy hiệu Atilla biển số 52X4-9168, số máy VMM9BF- D-022829, số khung RLGH125HD-7D22829, 01 giấy đăng ký xe máy biển số 52X4- 9168 mang tên Nguyễn Thị Ngọc V1 và 01 xe máy hiệu Honda Future II biển số 29U4-3128, số máy JC35E-0029755, số khung RLHJC35075Y029669; tịch thu và tiêu hủy 03 đầu đoản dùng để bẻ khóa (01 đầu đoản dài 10cm, 02 đầu đoản dài 6cm), 01 thanh sắt đoản hình chữ L có phần băng keo màu đen dài 12cm và 01 quần vải màu xám đen, 01 nón bảo hiểm màu trắng xám, vành nón màu đen; tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, số IMEI 1:355149113441048, số IMEI 2: 355149113441055 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu đen, bị bể màn hình, số IMEI : 359182076670556.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố của Cơ quan điều tra Công an Quận 3, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, kiểm sát viên đã thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo Bộ luật tố tụng hình sự qui định. Quá trình điều tra bị cáo cũng không có bất cứ ý kiến hoặc khiếu nại gì về các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng cũng như người tiến hành tố tụng. Vì vậy có cơ sở xác định các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với nội dung Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp do Công an Phường 3, Quận 3 L ngày 03/02/2023 (BL13,14-23,25); phù hợp nội dung các lời khai của bị hại, nhân chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra. Vì vậy đã có đủ cơ sở kết luận như sau: Bị cáo Nguyễn Thanh L đã lợi dụng sơ hở, lén lút trộm cắp của anh Trần Hồng Đ 01 chiếc xe máy hiệu Honda Future II , biển số: 29U4-3128 tại thời điểm tháng 02/2023 trị giá 6.333.000 đồng (sáu triệu ba trăm ba mươi ba ngàn đồng) sau đó điện thoại cho Giang H rồi chạy đến vòng xoay Lê Đại Hành. L đẩy xe đến trước số 36-36A Âu Cơ phường 9 Quận Tân Bình gặp Giang H và nói với Giang H chiếc xe L vừa trộm cắp được bán cho H giá 2.500.000 đồng sau đó H đem xe về 34/30A Hoàng Ngọc Phách phường Phú Thọ Hòa Quận Tân Phú cất giữ.

[3] Xét, bị cáo L là người đã thành niên biết rõ hành vi trộm cắp tài sản của người khác là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham nên vẫn bất chấp xem thường sự trừng trị của pháp luật cố ý thực hiện việc phạm tội. Bị cáo Giang H biết rõ tài sản mà bị cáo L trộm cắp đem bán là tài sản do phạm tội mà có nhưng vẫn chấp nhận mua của L là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham nên vẫn bất chấp xem thường sự trừng trị của pháp luật cố ý thực hiện việc phạm tội. Hành vi do các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã không chỉ trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[4] Căn cứ từ các yếu tố nêu trên, đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Thanh L đã lợi dụng sơ hở, lén lút trộm cắp của anh Trần Hồng Đ 01 chiếc xe máy hiệu Honda Future II , biển số: 29U4-3128 tại thời điểm tháng 02/2023 trị giá 6.333.000 đồng ( sáu triệu ba trăm ba mươi ba ngàn đồng). Hành vi của bị cáo L đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. ngày 29/5/1997 Tòa án nhân dân Quận 1 xử phạt 09 tháng tù về tội “ Cướp giật tài sản của công dân”; ngày 29/7/2009 Tòa án nhân dân Quận 10 xử phạt 04 năm tù và phạt bổ sung 10.000.000 đồng về tội “ Cướp giật tài sản” (trường hợp tái phạm) tại bản án số 120/2009/HSST bị cáo chấp hành án xong, chưa được xóa án tích, tiếp tục tái phạm lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm thuộc trường hợp định khung được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Giang H đã có hành vi tiêu thụ 01 chiếc xe mô tô do trộm cắp mà có với giá trị là 6.333.000 đồng là đã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

[5] Xét, bị cáo L có nhân thân xấu: Ngày 23/9/2020 Tòa án nhân dân Quận 5 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chấp hành xong vào ngày 28/4/2022 [6] Xét, bị cáo Giang H có nhân thân xấu : Ngày 16/3/1990 Tòa án nhân dân Quận 11 xử phạt 09 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản của công dân”; Ngày 30/3/1994 Tòa án nhân dân Quận 11 xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác”; ngày 07/7/2014 Tòa án nhân dân Quận Tân Phú xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” ; ngày 17/12/2015 Tòa án nhân dân Quận 11 xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tổng hợp hình phạt 01 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” của Tòa án nhân dân Quận Tân Phú ngày 07/7/2014, buộc chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 năm 06 tháng tù. Vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo.

[7] Tuy nhiên cũng xét, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn, hối lỗi nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[9] Từ những cơ sở trên, nghĩ cần căn cứ Điều 50 Bộ luật Hình sự quy định về căn cứ quyết định hình phạt, Điều 38 Bộ luật Hình sự quy định về tù có thời hạn; áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173 và khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự quy định về khung hình phạt áp dụng; áp dụng các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để quyết định một hình phạt tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo.

[10] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, số IMEI 1:355149113441048, số IMEI 2: 355149113441055 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu đen, bị bể màn hình, số IMEI : 359182076670556 là phương tiện phạm tội nghĩ nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Đối với 03 đầu đoản dùng để bẻ khóa (01 đầu đoản dài 10cm, 02 đầu đoản dài 6cm), 01 thanh sắt đoản hình chữ L có phần băng keo màu đen dài 12cm và 01 quần vải màu xám đen, 01 nón bảo hiểm màu trắng xám, vành nón màu đen là phương tiện phạm tội nghĩ nên tịch thu và tiêu hủy.

- Giao cho Cơ quan thi hành án dân sự Quận 3 tìm và giao trả chủ sở hữu hợp pháp 01 xe máy hiệu Atilla biển số 52X4-9168, số máy VMM9BF-D-022829, số khung RLGH125HD-7D22829, 01 giấy đăng ký xe máy biển số 52X4-9168 mang tên Nguyễn Thị Ngọc V1 và 01 xe máy hiệu Honda Future II biển số 29U4-3128, số máy JC35E-0029755, số khung RLHJC35075Y029669.

[11] Trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Thanh L đồng ý bồi thường số tiền 6.300.000 đồng (sáu triệu ba trăm ngàn đồng) theo yêu cầu của bị hại là không trái quy định của pháp luật nghĩ nên chấp nhận.

[12] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 tại phiên tòa là phù hợp tính chất, mức độ phạm tội, phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử, nghĩ nên chấp nhận.

[13] Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và bị cáo Hòa phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 38; Điều 50; điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Thanh L.

Căn cứ Điều 38; Điều 50; khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Giang H.

Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ các Điều 331, 333, 336 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh L đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” và bị cáo Giang H đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Xử phạt : Nguyễn Thanh L 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 03/02/2023.

Xử phạt : Giang H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 03/02/2023.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, số IMEI 1:355149113441048, số IMEI 2: 355149113441055 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu đen, bị bể màn hình, số IMEI : 359182076670556.

- Tịch thu và tiêu hủy 03 đầu đoản dùng để bẻ khóa (01 đầu đoản dài 10cm, 02 đầu đoản dài 6cm), 01 thanh sắt đoản hình chữ L có phần băng keo màu đen dài 12cm và 01 quần vải màu xám đen, 01 nón bảo hiểm màu trắng xám, vành nón màu đen;

- Giao cho Cơ quan thi hành án dân sự Quận 3, 01 xe máy hiệu Atilla biển số 52X4-9168, số máy VMM9BF-D-022829, số khung RLGH125HD-7D22829, 01 giấy đăng ký xe máy biển số 52X4-9168 mang tên Nguyễn Thị Ngọc V1 và 01 xe máy hiệu Honda Future II biển số 29U4-3128, số máy JC35E-0029755, số khung RLHJC35075Y029669 giao trả cho chủ sở hữu hợp pháp. Nếu quá 06 (sáu) tháng tính từ ngày thông báo trên báo vẫn không có chủ sở hữu hợp pháp đến xin nhận lại chiếc xe trên thì tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước. Nếu chủ sở hữu hợp pháp là bị cáo trong vụ án này thì tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Buộc bị cáo Nguyễn Thanh L bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Trần Hồng Đ số tiền 6.300.000 đồng (sáu triệu ba trăm ngàn đồng).Thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành, nếu bên phải thi hành án không thực hiện đúng việc thanh toán tiền, thì bên phải thi hành án phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

(Tài sản giao Cơ quan thi hành án dân sự Quận 3, tịch thu nộp Ngân sách Nhà Nước và tiêu hủy được ghi trong Lệnh nhập kho vật chứng số 683/LNK-CQCSĐT- CSHS ngày 25/4/2023 của Cơ Quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3).

Buộc mỗi bị cáo chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm. Buộc bị cáo Nguyễn Thanh L chịu 315.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án d ân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh trong trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án, hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 62/2023/HS-ST về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:62/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;