TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 62/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN, CHỨNG TỪ THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2021/QĐXXST- HS ngày 03 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 62/2021/QĐST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Vũ Thị Minh T, sinh ngày 20 tháng 6 năm 1982 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Đường T, phường H, quận H, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Đường T, phường T, quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình đ ộ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Bá D và bà Nguyễn Thị H; chồng là Vũ Huy D và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ ngày 07/5/2020; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/5/2020; có mặt.
2. Hoàng Thị Oanh P, sinh ngày 30 tháng 7 năm 1985 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Đường T, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Đường H, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình đ ộ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T và bà Đặng Thị Lan O; chồng là Lê Cao Đ và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ ngày 06/5/2020; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/5/2020; có mặt.
- Người làm chứng:
+ Bà Vũ Thị T; vắng mặt.
+ Chị Phạm Thị T; vắng mặt.
+ Chị Trần Thị V; vắng mặt.
+ Anh Phạm Ngọc T; vắng mặt.
+ Chị Hoàng Thị H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 09 giờ 30 phút ngày 06/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngô Quyền và Công an phường Máy Tơ tiến hành kiểm tra hành chính xe mô tô do Hoàng Thị Oanh P điều khiển trên đường Điện Biên Phủ, phường Máy Tơ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, nghi ngờ có hoạt động mua bán trái phép hóa đơn. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hoàng Thị Oanh P, Cơ quan điều tra đã thu giữ một số vật chứng gồm: 01 dấu tròn của Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T; 01 dấu chức danh Giám đốc Phạm Ngọc T; 01 Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T; 01 quyển hóa đơn số 14, mẫu số 01 GTKT3/001, ký hiệu DT/18P, ghi tên đơn vị bán hàng là Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T, bao gồm: các số từ 651 đến 660, số 662, 663, 665, 666,667, 668, 669, 670, 672, 673, 674, 675, 676, 677, và các số từ 679 đến 700; 01 quyển hóa đơn số 15, mẫu số 01 GTKT3/001, ký hiệu DT/18P, ghi tên đơn vị bán hàng là Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T, bao gồm: các số từ 701 đến 750; các hóa đơn đã bị xé rời ghi người bán là Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T, bao gồm các số: 36, 123, 181, 496, 482, 582, 600, 641, 647, 649, 650, 626, 624; 01 quyển giấy giới thiệu chưa ghi nội dung, đã đóng s ẵn dấu giám đốc Phạm Ngọc T và dấu tròn Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T; một số tờ giấy rút tiền mặt do Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam phát hành, chưa ghi nội dung, đã đóng sẵn dấu giám đốc Phạm Ngọc T và dấu tròn Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T.
Mở rộng điều tra, Cơ quan điều tra đã phát hiện thêm Vũ Thị Minh T có hoạt động mua bán trái phép hóa đơn. Tiến hành khám xét nơi ở của Vũ Thị Minh T, Cơ quan điều tra đã thu giữ một số vật chứng gồm: 01 dấu tròn của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại và Xây dựng Hòa B; 01 dấu chức danh giám đốc Hoàng Thị H; 01 quyển hóa đơn số 10, mẫu số 01 GTKT3/002, ký hiệu AA/18P, ghi tên đơn vị bán hàng là Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại và Xây dựng Hòa B, bao gồm: các số hóa đơn từ 451 đến 456, số 459, 460, 462, 463, 466, 467, 470, 471, 472, 474, 476, 477, 478, 480, và các số từ 482 đến 450;
01 quyển hóa đơn số 11, mẫu số 01 GTKT3/002, ký hiệu AA/18P, ghi tên đơn vị bán hàng là Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại và Xây dựng Hòa B, bao gồm: các số hóa đơn từ 501 đến 550; các hóa đơn đã bị xé rời khỏi quyển, ghi người bán là Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại và Xây dựng Hòa B, gồm: các số 410, 445 là bản gốc; các số 32,39, 46, 47 là bản photo; 01 quyển giấy rút tiền mặt (C001/02012) do Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam phát hành, chưa ghi nội dung, đã đóng s ẵn dấu Giám đốc Hoàng Thị H và dấu tròn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại và Xây dựng Hòa B.
Ngoài ra, trong quá trình điều tra tại các doanh nghiệp có sử dụng hóa đơn của Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T và Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại và Xây dựng Hòa B, các doanh nghiệp đã tự nguyện bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngô Quyền: 14 hóa đơn liên 2, ghi tên đơn vị bán hàng là Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T các số 36, 123, 181, 496, 482, 582, 600, 641, 647, 649, 650, 669, 670, 674; 18 hóa đơn liên 2, ghi tên đơn vị bán hàng là Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại và Xây dựng Hòa B các số 32, 34, 37, 39, 40, 46, 47, 140, 301, 311, 313, 342, 346, 358, 410, 445, 483, 484.
Quá trình điều tra Vũ Thị Minh T khai nhận: Tháng 05/2018, qua mối quan hệ xã hội, T đã liên hệ với một người phụ nữ tên Thúy (hiện chưa xác minh được lai lịch, địa chỉ) để mua pháp nhân Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại và Xây dựng Hòa B (viết tắt là Công ty Hòa B), MSDN: mã số doanh nghiệp 0201862394 do Sở Kế hoạch đầu tư – thành phố Hải Phòng cấp ngày 21/03/2018. Trụ sở Công ty tại địa chỉ: Số 143 đường Lê Lai, phường Máy Chai, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chủ sở hữu và người đại diện theo pháp luật của Công ty là Hoàng Thị H – Chức danh: Giám đốc, sinh ngày: 13/7/1985, trú tại: Số 23 đường Đà Nẵng, thị trấn Núi Đèo, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. T trực tiếp thực hiện các hoạt động mua bán trái phép hoá đơn GTGT của công ty này. Quá trình hoạt động T đã bán tổng cộng 46 tờ hoá đơn GTGT của Công ty Hòa B cho 07 công ty với tổng doanh số ghi khống trên hoá đơn chưa thuế là 36.564.876.377 đồng, tiền thuế GTGT là 3.656.487.637 đồng với giá 1% doanh thu chưa thuế, thu lợi 365.648.763 đồng. Cụ thể:
Quá trình bán 46 tờ hóa đơn cho 07 công ty, T tự mình soạn T hợp đồng kinh tế và các tài liệu liên quan, sau đó T tự viết nội dung, ký tên giám đốc và đóng dấu chức danh của giám đốc trên hóa đơn, hợp đồng và các tài liệu liên quan rồi gửi cho người mua. Để hợp thức hoá việc thanh toán tiền hàng cho các hoá đơn khống đã bán, T mở tài khoản Công ty Hòa B tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam để nhận tiền chuyển khoản và rút ra trả lại cho khách.
Về việc sử dụng số tiền thu lợi bất chính, qua quá trình xác minh tại Chi cục Thuế quận Ngô Quyền thì T đã nộp thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp và lệ phí môn bài của Công ty Hòa B là 307.010.882 đồng. Số tiền thực tế T thu lợi sau sau nộp thuế là 58.637.881 đồng, số tiền này T sử dụng chi tiêu cá nhân hết.
Cơ quan điều tra đã xác minh tại 07 công ty sử dụng hóa đơn GTGT của Công ty Hòa B (Cơ quan điều tra đều thu giữ được liên 1, liên 3 và một số liên 2 của hóa đơn mua bán). Cụ thể: Công ty TNHH Thương mại Vận tải Nam H đã sử dụng 14 tờ hóa đơn; Công ty TNHH Thương mại Vận tải và xây dựng Bảo A đã sử dụng 04 tờ hóa đơn; Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp Đông M đã s ử dụng 04 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục thuế quận Lê Chân; Công ty Cổ phần L đã sử dụng 05 tờ hóa đơn kê khai tại Chi cục thuế quận Ngô Quyền; Công ty TNHH Thái Sơn Hải N đã sử dụng 09 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục thuế huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại Vận tải Khánh H đã sử dụng 07 tờ hóa đơn; Công ty TNHH Vận tải xây dựng Đức T đã mua 03 tờ hóa đơn nhưng đều chưa kê khai thuế và đã giao nộp toàn bộ hóa đơn liên 2 cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngô Quyền. Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền đã chuyển hồ sơ và tài liệu liên quan đến Cơ quan điều tra huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để tiếp tục điều tra giải quyết theo thẩm quyền.
Đối với các công ty: Công ty TNHH Thương mại Vận tải Nam H; Công ty Cổ phần L; Công ty TNHH Thương mại Vận tải và xây dựng Bảo A; Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp Đông M, quá trình điều tra xác minh thể hiện các công ty mua hàng hóa thật để phục vụ cho kinh doanh và được xuất hóa đơn GTGT từ Công ty Hòa B, các công ty không biết và không trao đổi mua bán hóa đơn với Vũ Thị Minh T.
Quá trình điều tra Hoàng Thị Oanh P khai nhận: Từ tháng 11/2018, để thực hiện việc mua bán trái phép hóa đơn giá trị gia tăng (viết tắt GTGT) nhằm mục đích thu lợi bất chính, Hoàng Thị Oanh P đã tự thành lập Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T (viết tắt Công ty Duy T) bằng cách nhờ Phạm Ngọc T, sinh năm 1988; trú tại: Số 41/8/267 đường Lê Thánh Tông, phường Máy Chai, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đứng tên làm Giám đốc, đại diện theo pháp luật của Công ty Duy T, MSDN 0201906316 do Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Hải Phòng cấp ngày 09/10/2018. Trụ sở Công ty tại địa chỉ: Số 5/165 đường Lê Lợi, phường Gia Viên, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. P trực tiếp thực hiện các hoạt động mua bán trái phép hoá đơn GTGT của công ty này. Quá trình hoạt động, P đã bán tổng cộng 30 tờ hoá đơn GTGT của Công ty Duy T cho 17 công ty với tổng doanh số ghi khống trên hoá đơn chưa thuế là 9.996.164.285 đồng, tiền thuế GTGT là 999.616.428 đồng với giá 1% doanh thu chưa thuế, thu lợi 99.916.642 đồng. Cụ thể:
Quá trình bán 30 tờ hóa đơn cho 17 công ty, P tự mình soạn T hợp đồng kinh tế và các tài liệu liên quan, sau đó P tự viết nội dung, ký tên giám đốc và đóng dấu chức danh của giám đốc trên hóa đơn, hợp đồng và các tài liệu liên quan rồi gửi cho người mua. Để hợp thức hoá việc thanh toán tiền hàng cho các hoá đơn khống đã bán, P mở tài khoản Công ty Duy T tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam để nhận tiền chuyển khoản và rút ra trả lại cho khách.
Về việc sử dụng số tiền thu lợi bất chính, qua quá trình xác minh tại Chi cục Thuế quận Ngô Quyền thì P đã n ộp thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp và lệ phí môn bài của Công ty Duy T là 32.000.000 đồng (bút lục số 214). Số tiền thực tế P thu lợi sau sau nộp thuế là 67.961.642 đồng, số tiền này P sử dụng chi tiêu cá nhân hết.
Cơ quan điều tra đã xác minh tại 17 công ty sử dụng hóa đơn GTGT của Công ty Duy T (Cơ quan điều tra đều thu giữ được liên 1, liên 3 và một số liên 2 của hóa đơn mua bán). Cụ thể: Công ty TNHH Đầu tư và dịch vụ Thương mại Minh Đ đã sử dụng 01 tờ hóa đơn; Công ty TNHH Thương mại và Vận tải Cường Giang đã sử dụng 04 tờ hóa đơn; Công ty TNHH Thương mại Xếp dỡ dịch vụ vận tải Hải Lđã sử dụng 01 tờ hóa đơn; Công ty TNHH Thương mại và Sản xuất xuất nhập khẩu Vy L đã sử dụng 01 tờ hóa đơn; Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và xây dựng T đã sử dụng 01 tờ hóa đơn; Công ty Cổ phần Du lịch khách sạn Hải Đ đã s ử dụng 02 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế quận Ngô Quyền; Công ty Cổ phần phát triển đô thị CTCP đã sử dụng 01 tờ hóa đơn; Công ty Cổ phần đầu tư phát triển Vicenza đã sử dụng 01 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Cục thuế Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Công ty TNHH S đã sử dụng 01 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; Công ty Cổ phần Xây dựng công trình ngầm và dân dụng Vodk đã sử dụng 03 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế H, tỉnh Quảng Ninh; Công ty Cổ phần Đầu tư và xây dựng T1 đã sử dụng 01 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; Công ty TNHH MTV Thuyền viên V sử dụng 01 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế quận Kiến An; Công ty TNHH MTV Dịch vụ và du lịch biển đảo Hải T sử dụng 01 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế quận Hồng Bàng; Công ty TNHH T đã sử dụng 01 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế huyện Thủy Nguyên; Công ty TNHH vận tải xây dựng thương mại Đức T đã mua 02 tờ hóa đơn; Công ty TNHH xuất nhập khẩu thương mại vận tải Khánh H mua 02 tờ hóa đơn; Công ty Cổ phần tự động hóa T mua 06 tờ hóa đơn nhưng đều chưa kê khai thuế và đã giao nộp toàn bộ hóa đơn liên 2 cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngô Quyền. Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền đã chuyển hồ sơ và tài liệu liên quan đến Cơ quan điều tra thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa để tiếp tục điều tra giải quyết theo thẩm quyền.
Đối với các công ty: Công ty TNHH Đầu tư và dịch vụ thương mại Minh Đ; Công ty TNHH Thương mại và vận tải Cường Giang; Công ty TNHH Thương mại xếp dỡ dịch vụ vận tải Hải L; Công ty TNHH thương mại và sản xuất xuất nhập khẩu Vy L; Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và xây dựng T; Công ty TNHH MTV Thuyền viên V; Công ty Cổ phần Du lịch khách sạn Hải Đ; Công ty TNHH MTV Dịch vụ và du lịch biển đảo Hải T; Công ty TNHH T, quá trình điều tra xác minh thể hiện các công ty mua hàng hóa thật để phục vụ cho kinh doanh và được xuất hóa đơn GTGT từ Công ty Duy T, các công ty không biết và không trao đổi mua bán hóa đơn với Hoàng Thị Oanh P.
Lời khai của bị can Vũ Thị Minh T và Hoàng Thị Oanh P (bút lục 237 đến 253), phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Về dân sự: Vũ Thị Minh T đã t ự nguyện nộp số tiền 20.000.000 đồng tiền khắc phục hậu quả (bút lục 140); Hoàng Thị Oanh P đã tự nguyện nộp số tiền 10.000.000 đồng để khắc phục hậu quả (bút lục 134).
Vật chứng của vụ án: 01 dấu tròn của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại và Xây dựng Hòa B; 01 dấu chức danh giám đốc Hoàng Thị H; 01 quyển hóa đơn số 10, mẫu số 01 GTKT3/002, ký hiệu AA/18P, ghi tên đơn vị bán hàng là Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại và Xây dựng Hòa B, bao gồm: các số hóa đơn từ 451 đến 456, số 459, 460, 462, 463, 466, 467, 470, 471, 472, 474, 476, 477, 478, 480, và các số từ 482 đến 450; 01 quyển hóa đơn số 11, mẫu số 01 GTKT3/002, ký hiệu AA/18P, ghi tên đơn vị bán hàng là Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại và Xây dựng Hòa B, bao gồm: các số hóa đơn từ 501 đến 550; 01 dấu tròn của Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T; 01 dấu chức danh Giám đốc Phạm Ngọc T; 01 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T; 01 quyển hóa đơn số 14, mẫu số 01 GTKT3/001, ký hiệu DT/18P, ghi tên đơn vị bán hàng là Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T, bao gồm: các số từ 651 đến 660, số 662, 663, 665, 666,667, 668, 669, 670, 672, 673, 674, 675, 676, 677, và các số từ 679 đến 700; 01 quyển hóa đơn số 15, mẫu số 01 GTKT3/001, ký hiệu DT/18P, ghi tên đơn vị bán hàng là Công ty TNHH Thương mại Vật tư Vận tải Duy T, bao gồm: các số từ 701 đến 750;
Một số giấy tờ, hóa đơn GTGT, chứng từ có liên quan khác (có thống kê chi tiết trong bảng kê vật chứng kèm theo hồ sơ vụ án).
Tại bản Cáo trạng số 36/CT-VKSNQ ngày 07/02/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố các bị cáo về tội "Mua bán trái phép hóa đơn” theo điểm d khoản 2 Điều 203 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, các bị cáo đã khai nh ận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 203 Bộ luật Hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự, xử: Phạt tiền bị cáo Vũ Thị Minh T từ 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng đến 250.000.000 (hai trăm năm mươi triệu) đồng về tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước” để nộp vào ngân sách Nhà nước.
- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 203 Bộ luật Hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự, xử: Phạt tiền bị cáo Hoàng Thị Oanh P từ 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng đến 250.000.000 (hai trăm năm mươi triệu) đồng về tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước” để nộp vào ngân sách Nhà nước.
- Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền thu lợi bất chính 58.637.881 (năm mươi tám triệu, sáu trăm ba mươi bảy nghìn, tám trăm tám mươi mốt) đồng của bị cáo Vũ Thị Minh T và 67.961.642 (sáu mươi bảy triệu, chín trăm sáu mươi mốt nghìn, sáu trăm bốn mươi hai) đồng của bị cáo Hoàng Thị Oanh P. Đối với số tiền bị cáo Vũ Thị Minh T đã giao nộp tổng cộng 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng để khắc phục hậu quả; cụ thể: Số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng theo Giấy nộp tiền vào tài khoản Kho bạc Nhà nước ngày 08 tháng 01 năm 2021 và số tiền 30.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0006242 ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng và số tiền bị cáo Hoàng Thị Oanh P đã giao nộp tổng cộng 30.000.000 (ba mươi triệu)đồng để khắc phục hậu quả, cụ thể: Số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng theo Giấy nộp tiền vào tài khoản Kho bạc Nhà nước ngày 08 tháng 01 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Tịch thu tiêu hủy tang vật gồm: 01 dấu tròn của Công ty TNHH xuất nhập khẩu thương mại và xây dựng Hòa B; 01 dấu chức danh giám đốc Hoàng Thị H; 01 dấu tròn của Công ty TNHH thương mại vật tư vận tải Duy T; 01 dấu chức danh Giám đốc Phạm Ngọc T theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/02/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
- Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Nói lời sau cùng: Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về việc vắng mặt của bị hại và người làm chứng: Tại phiên tòa, người làm chứng vắng mặt, không có lý do, nhưng trước đó tại cơ quan điều tra đã có lời khai thể hiện quan điểm nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Về tội danh:
+ Về căn cứ xác định các bị cáo có tội:
[3] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Lời khai khẳng định:
Trong khoảng thời gian từ tháng 05/2018 đến tháng 5/2020, Vũ Thị Minh T đã có hành vi sử dụng Công ty Hòa B để mua bán trái phép 46 số hóa đơn giá trị gia tăng, thu lợi bất chính 58.637.881 đồng; từ tháng 11/2018 đến tháng 5/2020, Hoàng Thị Oanh P đã có hành vi sử dụng Công ty Duy T để mua bán trái phép 30 số hóa đơn giá trị gia tăng, thu lợi bất chính 67.961.642 đồng. Tại thời điểm thực hiện hành vi trên, các bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của các bị cáo Vũ Thị Minh T, Hoàng Thị Oanh P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước” theo Điều 203 của Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết định khung hình phạt:
Các bị cáo Vũ Thị Minh T đã mua bán trái phép 46 số hóa đơn, bị cáo Hoàng Thị Oanh P đã mua bán trái phép 30 số hóa đơn nên các bị cáo phải chịu tình tiết định khung hình phạt là “Hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 30 số trở lên” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 203 của Bộ luật Hình sự.
[4] Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố các bị cáo về tội danh cũng như đi ều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.
[5] Đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực thuế, xâm hại đến lợi ích quốc gia về kinh tế, làm suy giảm đến ngân sách Nhà nước; vì vậy phải xử lý nghiêm khắc đối với các bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
[6] Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết giảm nhé trách nhiệm hình sự:
[7] Các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đồng thời các bị cáo đã nộp lại số tiền thu lợi bất chính; bị cáo T đã nộp 50.000.000 đồng, bị cáo P đã nộp 30.000.000 đồng để khắc phục hậu quả nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về hình phạt:
[8] Các bị cáo đều phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tại phiên tòa, các bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng hình phạt tiền để các bị cáo có khả năng thực hiện, các bị cáo sẽ thực hiện ngay sau khi kết thúc phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy, các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu và đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có ý thức sửa chữa sai lầm nên không nhất thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, có thể áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo, đồng thời thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước cũng như đ ảm bảo việc thu hồi tài sản cho Nhà nước. Tuy nhiên, bị cáo Vũ Thị Minh T mua bán trái phép 46 số hóa đơn nhiều hơn số lượng bị cáo Hoàng Thị Oanh P đã mua bán trái phép là 30 hóa đơn nên bị cáo Vũ Thị Minh T phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo Hoàng Thị Oanh P.
- Về vật chứng:
[9] Bị cáo Vũ Thị Minh T đã thu lợi bất chính từ mua bán trái phép hóa đơn với số tiền là 58.637.881 (năm mươi tám triệu, sáu trăm ba mươi bảy nghìn, tám trăm tám mươi mốt) đồng. Bị cáo Hoàng Thị Oanh P thu lợi bất chính từ mua bán trái phép hóa đơn với số tiền là 67.961.642 (sáu mươi bảy triệu, chín trăm sáu mươi mốt nghìn, sáu trăm bốn mươi hai) đồng. Đây là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội của các bị cáo. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền thu lợi bất chính 58.637.881 (năm mươi tám triệu, sáu trăm ba mươi bảy nghìn, tám trăm tám mươi mốt) đồng bị cáo Vũ Thị Minh T đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0006251 ngày 27 tháng 4 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền thu lợi bất chính 67.961.642 (sáu mươi bảy triệu, chín trăm sáu mươi mốt nghìn, sáu trăm bốn mươi hai) đồng bị cáo Hoàng Thị Oanh P đã nộp Biên lai thu tiền số 0006252 ngày 27 tháng 4 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
[10] Tạm giữ để bảo đảm thi hành án số tiền bị cáo Vũ Thị Minh T đã giao nộp tổng cộng 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng để khắc phục hậu quả; cụ thể: Số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng theo Giấy nộp tiền vào tài khoản Kho bạc Nhà nước ngày 08 tháng 01 năm 2021 và số tiền 30.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0006242 ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng và số tiền bị cáo Hoàng Thị Oanh P đã giao nộp tổng cộng 30.000.000 (ba mươi triệu)đồng để khắc phục hậu quả, cụ thể: Số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng theo Giấy nộp tiền vào tài khoản Kho bạc Nhà nước ngày 08 tháng 01 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
[11] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy tang vật gồm: 01 dấu tròn của Công ty TNHH xuất nhập khẩu thương mại và xây dựng Hòa B; 01 dấu chức danh giám đốc Hoàng Thị H; 01 dấu tròn của Công ty TNHH thương mại vật tư vận tải Duy T; 01 dấu chức danh Giám đốc Phạm Ngọc T theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/02/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
[12] Liên quan đến vụ án còn có Vũ Thị T, sinh năm 1965; trú tại: Số 369 đường Nguyễn Văn Linh, phường Kênh Dương, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng là người của Công ty TNHH vận tải xây dựng thương mại Đức T mua 05 tờ hóa đơn GTGT; Phạm Thị T, sinh năm 1984; trú tại: Số 45/14/162 đường Trung Lực, phường Đằng Giang, quận Hải An, thành phố Hải Phòng là người của Công ty TNHH xuất nhập khẩu thương mại vận tải Khánh H mua 09 tờ hóa đơn GTGT; Trần Thị V, sinh năm: 1982; trú tại: Số 16/275 đường Trần Nguyên Hãn, phường Niệm Nghĩa, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng là ngư ời của Công ty Cổ phần tự động hóa T mua 06 tờ hóa đơn GTGT của P và T mục đích để hợp thức hóa hàng hóa đầu vào cho công ty của mình nhưng T, Trang, Vân Anh chưa sử dụng số hóa đơn này để kê khai thuế và đã nộp toàn bộ hóa đơn liên 2 cho cơ quan Công an, đồng thời, số lượng hóa đơn mà T, Trang, Vân Anh mua chưa đủ để xử lý hình sự theo quy định tại Điều 203 Bộ luật Hình sự nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự.
[13] Đối với Hoàng Thị H đứng tên giám đốc của Công ty Hòa B, quá trình điều tra, hiện Hảo không có mặt tại nơi cư trú nên Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền tách ra tiếp tục xác minh, có căn cứ sẽ xử lý sau.
[14] Đối với người phụ nữ tên Thúy bán pháp nhân của Công ty Hòa B cho T và người đàn ông tên Hưng, Huy là người trực tiếp mua hóa đơn của 02 Công ty Duy T, Hòa B hiện chưa xác định rõ lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, có căn cứ sẽ xử lý sau.
[15] Đối với Phạm Ngọc T được P nhờ đứng tên giám đốc của Công ty Duy T và một số cá nhân được P, T thuê làm giao dịch rút tiền ngân hàng nhưng những người này không biết việc mình làm đ ể giúp cho P, T thực hiện việc mua bán trái phép hóa đơn nên Cơ quan điều tra không xem xét, giải quyết.
[16] Trong vụ án Vũ Thị Minh T có hành vi giới thiệu Hoàng Thị Oanh P bán hóa đơn cho khách có nhu cầu mua hóa đơn khống. Tuy nhiên, T không biết việc khách có mua hóa đơn của P hay không và không được hưởng lợi gì từ việc giới thiệu này nên T không đồng phạm với P trong việc mua bán trái phép hóa đơn GTGT nên Cơ quan điều tra không bị xử lý, Hội đồng xét xử không giải quyết.
+ Về án phí:
[17] Các bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23; khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
+ Về quyền kháng cáo:
[18] Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 203 Bộ luật Hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự, xử: Phạt tiền bị cáo Vũ Thị Minh T 250.000.000 (hai trăm năm mươi triệu) đồng về tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước” để nộp vào ngân sách Nhà nước.
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 203 Bộ luật Hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự, xử: Phạt tiền bị cáo Hoàng Thị Oanh P 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng về tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước” để nộp vào ngân sách Nhà nước.
Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử:
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền thu lợi bất chính 58.637.881 (năm mươi tám triệu, sáu trăm ba mươi bảy nghìn, tám trăm tám mươi mốt) đồng bị cáo Vũ Thị Minh T đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0006251 ngày 27 tháng 4 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền thu lợi bất chính 67.961.642 (sáu mươi bảy triệu, chín trăm sáu mươi mốt nghìn, sáu trăm bốn mươi hai) đồng của bị cáo Hoàng Thị Oanh P đã nộp Biên lai thu tiền số 0006252 ngày 27 tháng 4 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
- Tạm giữ để bảo đảm thi hành án số tiền bị cáo Vũ Thị Minh T đã giao n ộp tổng cộng 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng để khắc phục hậu quả; cụ thể: Số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng theo Giấy nộp tiền vào tài khoản Kho bạc Nhà nước ngày 08 tháng 01 năm 2021 và số tiền 30.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0006242 ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng và số tiền bị cáo Hoàng Thị Oanh P đã giao nộp tổng cộng 30.000.000 (ba mươi triệu)đồng để khắc phục hậu quả, cụ thể: Số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng theo Giấy nộp tiền vào tài khoản Kho bạc Nhà nước ngày 08 tháng 01 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
- Tịch thu tiêu hủy 01 dấu tròn của Công ty TNHH xuất nhập khẩu thương mại và xây dựng Hòa B; 01 dấu chức danh giám đốc Hoàng Thị H; 01 dấu tròn của Công ty TNHH thương mại vật tư vận tải Duy T; 01 dấu chức danh Giám đốc Phạm Ngọc T theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/02/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, các bị cáo Vũ Th ị Minh T, Hoàng Thị Oanh P, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo bản án: Các bị cáo Vũ Th ị Minh T, Hoàng Thị Oanh P được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 62/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước
Số hiệu: | 62/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về