Bản án 62/2021/HSST ngày 14/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 62/2021/HSST NGÀY 14/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2021/HSST ngày 09 tháng 4 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2021/QĐST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vi Văn H, Sinh năm: 1995. Tên gọi khác: Không.

ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn HL, xã GS, huyện LNg, tỉnh Bắc Giang.

Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông: Vi Văn Ngợi, sinh năm: 1970; Con bà: Dương Thị Khuyên, sinh năm: 1973; Anh, chị em ruột: có 2, bị cáo là con thứ 2. Vợ, con: Chưa có. Tiền án: không; Tiền sự: không - Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2020 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lâm Văn L, Sinh năm: 1996. Tên gọi khác: Không. ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn CR, xã KT, huyện LNg, tỉnh Bắc Giang. .

Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: không;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông: Lâm Văn Mào, sinh năm: 1968; Con bà: Luân Thị Dịp, sinh năm: 1966; Anh, chị em ruột: có 3, bị cáo là con thứ 3. Vợ, con: Chưa có. Tiền án: không; Tiền sự: không - Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2020 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:

Anh Lương Văn Đ, sinh năm: 1994 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn CR, xã KT, huyện LNg, tỉnh Bắc Giang.

* Người chứng kiến:

1. Ông Đỗ Phúc Đ, sinh năm: 1958 (vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà 01, ngõ AL, đường ĐC, phường LL, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

2. Ông Trịnh Quang M , sinh năm: 1974 (vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà 08, tầng 1, nhà I, tập thể ĐC, phường LL, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vi văn H, sinh năm 1995, nơi cư trú thôn HL, xã GS và Lâm Văn L, sinh năm: 1996, nơi cư trú thôn CR, xã KT cùng ở huyện LNg, tỉnh Bắc Giang là bạn bè quen biết nhau. Khoảng 12 giờ ngày 17/12/2020, L đi xe mô tô biển kiểm soát 98 E1 - 461.43 mượn của bạn từ thôn Ninh Khánh, xã Quang Châu sang phòng trọ của Vi văn H ở thôn Vân Cốc 4, xã Hoàng Ninh cùng huyện Việt Yên để chơi. Tại đây H và L có thống nhất đi mua ma túy về sử dụng. L đưa cho H 200.000 đồng và bảo H mua cho L 400.000 đồng ma túy vì trước đó H nợ L 200.000 đồng, H đồng ý. L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98E1- 461.43 chở H đi mua ma túy. Theo chỉ dẫn của H, L điều khiển xe đi đến khu vực nhà I, tập thể Đồng Cửa, phường Lê Lợi, thành phố Bắc Giang, L đứng đợi bên dưới còn H đi lên tầng 3. Khi đến một phòng trên tầng 3 (H không rõ số phòng), H kẹp 1.000.000 đồng (gồm 400.000 đồng của L và 600.000 đồng của H) ở khe cửa và gọi “hú, cho em lấy 1.000.000”, ý là bảo bán cho H 1.000.000 đồng tiền ma túy heroine, thì một người phụ nữ trong nhà nói vọng ra “đi ra chờ một tí”. H đi ra phía hành lang chờ. Khoảng vài phút sau thì người trong nhà gọi “này”, H quay lại thì thấy người trong nhà thả rơi qua khe cửa 01 (một) cục giấy có nhiều màu, H biết trong đó có đựng số ma túy heroine mà H cần mua. H ra nhặt cục giấy lên, mở ra kiểm tra thấy bên trong có 05 gói giấy bạc đều có một mặt màu trắng bạc, một mặt màu trắng bên trong có đựng ma túy, sau đó H gói lại, cầm trên tay trái và đi xuống khu vực chân cầu thang tầng 1 thì bị bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ được bao gồm: Thu tại nền đất cạnh vị trí Vi văn H, Lâm Văn L bị bắt, do Vi văn H thả rơi từ tay trái xuống đất là một gói giấy màu có chữ bên trong có 05 gói giấy bạc đều có một mặt màu trắng bạc, một mặt màu trắng ghi là ma túy heroin; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 98 E1 - 461.43; Thu của Lâm Văn L số tiền 905.000 đồng (gồm 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 02 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng), 01 điện thoại Nokia 105 màu đen xám, có số imei 353161113579893, 01 ví màu xám; Thu của Vi văn H số tiền 1.200.000 đồng (gồm 26 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 22 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, 03 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 04 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng), 01 điện thoại Iphone 6 Plus màu bạc có số Imeil 354436069762860, 01 ví da màu nâu sẫm, 01 chứng minh nhân dân tên Vi văn H, 01 giấy phép lái xe hạng A1 tên Vi văn H.

Số vật chứng nghi là ma túy đã được niêm phong ngay khi thu giữ. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Giang đã ra quyết định trưng cầu giám định số 457 ngày 17/12/2020 để yêu cầu giám định số vật chứng nghi ma túy thu giữ được. Tại kết luận giám định số 1853/KL-KTHS ngày 21/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: “Trong 01 phong bì đã được niêm phong gửi giám định: Trong 01 (một) gói giấy có nhiều màu, chữ và hình: Chất cục bột màu trắng đựng trong 05 (năm) gói giấy bạc đều có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng đều là ma túy có tổng khối lượng 1,782gam, loại Heroine.” Bản cáo trạng số 51/CT-VKS-TPBG ngày 06 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang đã truy tố các bị cáo Vi văn H, Lâm Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Vi văn H, Lâm Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 điều 249, Điểm s khoản 1 điều 51; Điều 38; điều 17, điều 58 Bộ luật hình sự 2015.

- Xử phạt bị cáo Vi văn H từ 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/12/2020.

- Xử phạt bị cáo Lâm Văn L từ 02 (hai) năm 02 (hai) tháng tù đến 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/12/2020.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị phạt bổ sung bằng tiền mỗi bị cáo 5.000.000 đồng sung công quỹ nhà nước.

Về vật chứng: áp dụng điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS, đề nghị:

+ Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy hoàn lại sau giám định có khối lượng 1,537gam, loại heroine, đựng trong 05 (năm) gói giấy bạc đều có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng đựng trong một gói giáy có nhiều màu, chữ và hình đã được niêm phong trong 01 phong bì thư đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, có chữ ký của giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu.

+ Trả lại cho Lâm Văn L số tiền 905.000 đồng, 01 điện thoại Nokia màu xám đen có số imei 353161113579893; 01 ví màu xám.

+ Trả lại cho Vi văn H số tiền 1.200.000 đồng, 01 điện thoại Iphone 6 plus số imei 354436069762860; 01 ví da màu nâu sẫm, 01 chứng minh nhân dân tên Vi văn H, 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Vi văn H.

Tạm giữ tài sản của H, L để đảm bảo thi hành án.

Ngoài ra kiểm sát viên đề nghị về án phí hình sự và quyền kháng cáo của các bị cáo, người có quyền, nghĩa vụ liên quan.

Tại phiên tòa, bị cáo Vi văn H, Lâm Văn L đã thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu, nhận thức hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật. Các bị cáo không tranh luận, không bào chữa gì, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì, do đó HĐXX đánh giá hành vi, quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Lời khai của các bị cáo Vi văn H, Lâm Văn L tại phiên tòa đã thừa nhận có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị bắt quả tang vào hồi 12 giờ 45 phút ngày 17/12/2020 tại chân cầu thang tầng 1, dãy nhà 1, tập thể Đồng Cửa, phường Lê Lợi, thành phố Bắc Giang. Lời khai của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với nhau và với lời khai của những người chứng kiến. Lời khai của các bị cáo còn được chứng minh bằng biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang L hồi 13 giờ 30 phút ngày 17/12/2020 tại công an phường Lê Lợi, thành phố Bắc Giang, vật chứng thu giữ được. Kết luận giám định số 1853/KL-KTHS ngày 21/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang đã xác định số ma túy bị cáo H, L tàng trữ là heroin, có khối lượng 1,782 gam. Từ các tài liệu, chứng cứ, lời khai đã được thẩm tra tại phiên tòa, có cơ sở xác định: Hồi 12 giờ 45 phút ngày 17/12/2020 tại chân cầu thang tầng 1, dãy nhà 1, tập thể Đồng Cửa, phường Lê Lợi, thành phố Bắc Giang, các bị cáo Vi văn H, Lâm Văn L đã bị bắt quả tang khi đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine, có khối lượng 1,782 gam.

Các bị cáo Vi văn H, Lâm Văn L đều là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của các bị cáo không những xâm phạm đến lĩnh vực quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy mà còn gây những tác hại, ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội, đe dọa sức khỏe, tính mạng con người và là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm nguy hiểm khác. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ Luật hình sự. Bản cáo trạng số 51/CT-VKS-TPBG ngày 06/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang đã truy tố các bị cáo H, L theo tội danh, điều luật trên là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Đánh giá về vai trò, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về vai trò: Đây là vụ án đồng phạm mang tính chất giản đơn, các bị cáo đã cùng rủ nhau, góp tiền mua ma túy về sử dụng. Tuy nhiên, trong vụ án, bị cáo H là người biết địa điểm, trực tiếp cầm tiền đi mua mang túy, có số tiền ra mua ma túy nhiều hơn nên có vai trò đứng trên bị cáo L.

Về nhân thân, tình tiết tăng nặng TNHS: Cả bị cáo H và L đều là người nghiện ma túy, song chưa có tiền án, tiền sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điều 52 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được áp dụng điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Đánh giá hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo H, bị cáo L, HĐXX xét thấy hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đã thực hiện, buộc các bị cáo phải cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời cũng để răn đe, ngăn ngừa các hành vi, tội phạm về ma túy đang ngày càng gia tăng trong đời sống xã hội hiện nay. HĐXX xét mức hình phạt kiểm sát viên đề xuất là phù hợp với mỗi bị cáo nên chấp nhận.

[3].Về hình phạt bổ sung: Bị cáo L, bị cáo H đều nghiện ma túy, không có tài sản, thu nhập nên HĐXX miễn hình phạt bổ sung phạt bổ sung bằng tiền.

[4]. Về vật chứng: căn cứ điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định có khối lượng 1,537 gam heroine đựng trong 05 (năm) gói giấy bạc đều có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng đựng trong một gói giấy có nhiều màu, chữ và hình đã được niêm phong trong 01 phong bì thư đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, có chữ ký của giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu cần tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với số tiền 905.000 đồng, 01 điện thoại Nokia màu xám đen có số imei 353161113579893; 01 ví màu xám là các tài sản thu của Lâm Văn L, không liên quan đến hành vi phạm tội xét trả lại cho L song tạm giữ tài sản để đảm bảo thi hành án.

+ Đối với số tiền 1.200.000 đồng, 01 điện thoại Iphone 6 Plus số imei 354436069762860; 01 ví da màu nâu sẫm, 01 chứng minh nhân dân tên Vi văn H, 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Vi văn H là tài sản thu của H, không liên quan đến hành vi phạm tội, xét trả lại cho H, song tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát 98 E1 - 461.43 là xe của anh Lương Văn Đ, sinh năm 1994 cùng quê với bị cáo L. Quá trình điều tra xác định L mượn xe của anh Đ, nhưng anh Đ không biết L sử dụng đi mua ma túy, cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Đ, HĐXX thấy là đúng pháp luật, không đặt ra xem xét nữa. [5]. Đối với đối tượng là một người phụ nữ bị cáo H khai đã bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra bị cáo xác định không biết họ tên, tuổi, không biết mặt, không xác định được số phòng ở, cơ quan điều tra cũng không thu thập được tài liệu, chứng cứ, không xác định được người bán ma túy là ai, nên không có căn cứ xử lý. Do vậy HĐXX không xem xét.

[6].Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; Điểm s khoản 1 điều 51; Điều 38; điều 17, điều 58; Điểm c khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự 2015; điểm a khoản 1 điều 106; điều 135, điều 136, điều 331, điều 332, điều 333, điều 336, điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 3, điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

2. Tuyên bố các bị cáo Vi văn H, Lâm Văn L cùng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Vi văn H 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 17/12/2020.

Xử phạt bị cáo Lâm Văn L 02 (hai) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 17/12/2020.

3. Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định 1,537 gam, loại heroine đựng trong 05 (năm) gói giấy bạc đều có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng đựng trong một gói giấy có nhiều màu, chữ và hình đã được niêm phong trong 01 phong bì thư đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, có chữ ký của giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu.

+ Trả cho bị cáo Lâm Văn L các tài sản gồm: Số tiền 905.000 đồng, 01 điện thoại Nokia màu xám đen có số imei 353161113579893; 01 ví màu xám.

Tạm giữ tài sản của bị cáo L để đảm bảo thi hành án.

+ Trả cho bị cáo Vi văn H các tài sản gồm: Số tiền 1.200.000 đồng, 01 điện thoại Iphone 6 plus số imei 354436069762860; 01 ví da màu nâu sẫm, 01 chứng minh nhân dân tên Vi văn H, 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Vi văn H.Tạm giữ tài sản của bị cáo H để đảm bảo thi hành án.

4. Án phí: Bị cáo Vi văn H, Lâm Văn L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 62/2021/HSST ngày 14/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;