TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 62/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 69/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Văn P, sinh năm 1965 tại Thái Bình. Nơi ĐKHKTT: Tổ 46 K3, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: Số 24C 192, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quý D (đã chết) và bà Nguyễn Thị O (Nguyễn Thị Ghẻ) (đã chết); có vợ là Bùi Thị Kim T và 02 con; tiền án: Tại bản án số 03/HS2 ngày 07 tháng 01 năm 1998, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt Nguyễn Văn P 06 tháng tù giam (đã đươc xóa án tích); tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 12 tháng 6 năm 2020, tạm giam ngày 17 tháng 6 năm 2020; có mặt.
2. Trần Trọng T, sinh năm 1962 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: lớp 5/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Trọng N (đã chết) và bà Phạm Thị M; có vợ là Phạm Thị T và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 12 tháng 6 năm 2020, tạm giam ngày 17 tháng 6 năm 2020; có mặt.
Người chứng kiến: Anh Vũ Hải H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 10 giờ ngày 12 tháng 6 năm 2020, tại trước cửa nhà nghỉ V, đường 208, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng, Tổ công tác của Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy và Công an xã An Đồng phát hiện Trần Trọng T và Nguyễn Văn P có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Thu giữ trong túi quần phía trước bên trái Phượng đang mặc 01 gói giấy màu vàng kích thước khoảng 01 cm x 02 cm chứa chất bột màu trắng theo Phượng khai là Heroine mua về để cùng T sử dụng. Ngoài ra, lực lượng Công an còn thu giữ của P số tiền 290.000 đồng; 01 xe máy Yamaha Exiter màu đen BKS 15C1-267.69; 01 thẻ uống Methadol mang tên Nguyễn Văn P; thu giữ của Thủy số tiền 460.000 đồng; 01 điện thoại di động OPPO màu đỏ đen; 01 xe mô tô Honda Air Blade màu trắng đen BKS 15B1- 748.07. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng gửi giám định.
Theo kết luận giám định số 350/KLGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn P gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,17 gam, là loại Heroine.
Tại Cáo trạng số 67/CT –VKS ngày 15 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A truy tố các bị cáo Nguyễn Văn P và Trần Trọng T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn P và bị cáo Trần Trọng T khai nhận:
Khoảng 09 giờ ngày 12 tháng 6 năm 2020, bị cáo Thủy điều khiển xe mô tô BKS 15C1-267.69 từ nhà đi đến Trung tâm điều trị Methadone huyện A. Khi đang trên đường gần đến nơi thì T gặp P. Do quen biết nhau và cùng nghiện ma túy nên Thủy đưa cho P số tiền 200.000 đồng để đi mua ma túy về cả hai sử dụng. P cầm tiền rồi điều khiển xe mô tô BKS 15B1-748.07 đến đường tàu T, Quận L, thành phố Hải Phòng mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy (heroine) với giá 200.000 đồng. Sau đó, P cất gói ma túy vào túi quần bên trái phía trước đang mặc rồi đi về ngã tư Ă, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Tại đây, P gặp T và cả hai thống nhất đi về nhà nghỉ Vườn Cau để cùng sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an kiểm tra, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên. Các bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Nguyễn Văn P và Trần Trọng T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về hình phạt:
Áp dụng điểm c, Khoản 1, Điều 249; Điều 17; Điều 38, điểm s, Khoản 1; Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn P với mức án từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù.
Áp dụng điểm c, Khoản 1, Điều 249, Điều 17, Điều 38, điểm s, Khoản 1; Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Trần Trọng T với mức án từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù.
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Nguyễn Văn P và Trần Trọng T.
- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Khoản 1; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong có chứa số ma túy còn lại sau giám định trên có dấu niêm phong của Cơ quan giám định; trả lại bị cáo Trần Trọng T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ đen số IMEI 868.125.042566717, 868.125.04566709; trả lại bị cáo Nguyễn Văn P 01 thẻ uống Methadol; trả lại bị cáo Trần Trọng T số tiền 460.000đồng, trả lại bị cáo Nguyễn Văn P số tiền 290.000đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Trong vụ án này còn có đối tượng người đàn ông bán ma túy cho NguyễnVăn P, hiện chưa xác định được lai lịch, tên tuổi cụ thể nên không có căn cứ xử lý.
Xe mô tô BKS 15B1-748.07 qua xác minh tên đăng ký là Nguyễn Thị H nhưng hiện tại bà H đã rời khỏi địa phương từ năm 2014 không rõ nơi chuyển đến nên không lấy được lời khai bà H; Bị cáo P đã mua lại vào ngày 03 tháng 12 năm 2013 với giá 36.000.000 đồng nhưng hiện tại đã mất giấy tờ đăng ký xe. Do đó, tách chiếc xe trên để điều tra làm rõ sau.
- Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn P và Trần Trọng T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:
- Về tính hợp pháp của các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:
[1] Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Về chứng cứ xác định các bị cáo có tội và tội danh:
[2] Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi cất giữ trái phép chất ma túy là Heroine để sử dụng.
[3] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với chính lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp vời lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng đã thu giữ là gói ma túy trong túi quần bên trái phía trước của bị cáo Phượng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang được lập vào hồi 10 giờ 15phút ngày 12 tháng 6 năm 2020 tại Công an xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng.
[4] Khối lượng chất ma túy thu giữ của các bị cáo đã được cơ quan giám định tiến hành giám định. Tại Kết luận giám định số 350/KLGĐ-MT ngày 15 tháng 6 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “Chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn P gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,17gam, là loại Heroine”.
[5] Tại thời điểm các bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, các bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, các bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy có đủ cở sở kết luận, vào khoảng 09 giờ ngày 12 tháng 6 năm 2020 Trần Trọng T đưa cho Nguyễn Văn P số tiền 200.000đồng để mua ma túy về sử dụng. Sau khi Phượng mua được ma túy, cả hai đi đến nhà nghỉ Vườn Cau ở đường 208, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng để chuẩn bị sử dụng ma túy thì bị bắt quả tang . Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn P và bị cáo Trần Trọng T đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự.
- Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội; về nhân thân và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:
[6] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về quản lý chất gây nghiện, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác và lan truyền bệnh dịch nguy hiểm cho con người nên cần phải xử lý nghiêm để cải tạo giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.
[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn P và bị cáo Trần Trọng T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[9] Vụ án có đồng phạm, Hội đồng xét xử đánh giá đây là vụ án đồng phạm giản đơn không có tính tổ chức. Để áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của từng bị cáo, phân hoá vai trò của các bị cáo như sau: Bị cáo Trần Trọng T người đề xuất đưa tiền cho bị cáo Nguyễn Văn P mua ma túy, bị cáo Phượng là người trực tiếp đi mua ma túy và cất giấu ma túy nên bị cáo Trần Trọng T và bị cáo Nguyễn Văn P có vai trò thực hành tội phạm ngang nhau nên phải chịu mức hình phạt như nhau.
[10] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5, Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét bị cáo Nguyễn Văn P và bị cáo Trần Trọng T không có thu nhập, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[11] Về xử lý vật chứng:
Vật chứng của vụ án hiện đang thu giữ là khối lượng chất ma túy Heroine đã thu giữ của các bị cáo. Sau khi cơ quan giám định lấy mẫu giám định, khối lượng còn lại đã được niêm phong; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ đen số IMEI 868.125.042566717, 868.125.04566709, số tiền 460.000đồng của bị cáo Trần Trọng T; số tiền 290.000đồng và 01 thẻ uống Methadol của bị cáo Nguyễn Văn P. Đối với khối lượng chất ma túy Heroine là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 1 Điều 106; điểm a, Khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Còn 01 nhãn hiệu OPPO màu đỏ đen số IMEI 868.125.042566717, 868.125.04566709, số tiền 460.000đồng của bị cáo Trần Trọng T; số tiền 290.000đồng và 01 thẻ uống Methadol của bị cáo Nguyễn Văn P là tài sản của các bị cáo nên trả lại cho các bị cáo. Tuy nhiên cần tạm giữ số tiền 460.000đồng của bị cáo Trần Trọng T và số tiền 290.000đồng của bị cáo Nguyễn Văn P để đảm bảo thi hành án.
[12] Về các vấn đề khác:
Đối với xe mô tô BKS 15B1-748.07 qua xác minh tên đăng ký là Nguyễn Thị H, nhưng hiện tại bà H đã rời khỏi địa phương từ năm 2014 không rõ nơi chuyển đến nên không lấy được lời khai bà H; Bị cáo Phượng đã mua lại vào ngày 03 tháng 12 năm 2013 với giá 36.000.000 đồng nhưng hiện tại đã mất giấy tờ đăng ký xe. Do đó, Cơ quan điều tra tách chiếc xe trên để điều tra làm rõ sau là có căn cứ.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho Nguyễn Văn P, hiện chưa xác định được lai lịch, tên tuổi cụ thể nên không có căn cứ xử lý.
[13] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn P và bị cáo Trần Trọng T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào điểm c, Khoản 1, Điều 249; Điều 17; Điều 38; điểm s, Khoản 1, Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 6 năm 2020.
- Căn cứ vào điểm c, Khoản 1, Điều 249; Điều 17; Điều 38; điểm s, Khoản 1, Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Trọng T 15 (mười lăm) tháng tù tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 6 năm 2020.
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Nguyễn Văn P và bị cáo Trần Trọng T.
- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 1 Điều 106; điểm a, Khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu huỷ vật chứng gồm: 01 phong bì bên trong có chứa số ma túy còn lại sau giám định trên có dấu niêm phong của Cơ quan giám định số 350; trả lại cho bị cáo Trần Trọng T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ đen số IMEI 868.125.042566717, 868.125.04566709; trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn P 01 thẻ uống Methadol; trả lại cho bị cáo Trần Trọng T số tiền 460.000đồng; trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn P số tiền 290.000đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Các vật chứng nêu trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15 tháng 9 năm 2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện an Dương và Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Văn P và bị cáo Trần Trọng T mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.
Bị cáo Nguyễn Văn P và bị cáo Trần Trọng T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 62/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 62/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về