Bản án 62/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 62/2020/HS-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 28 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2020/TLST HS ngày 23 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn L, sinh ngày 18 tháng 11 năm 1973 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn B, xã L, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: nam; con ông Phm Văn Đ (đã chết) và bà Đào Thị K; vợ con: chưa có; tin án, tiền sự: không; nhân thân: năm 2005, bị Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ tiền giả”. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 08/01/2020 đến ngày 22/01/2020 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”, hiện tại ngoại tại nơi cư trú, có mặt.

- Bị hại:

1. Anh Lý Văn T, sinh năm:1989; địa chỉ: Thôn 11, xã L, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

2. Anh Lê Văn T, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn C, xã L, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1976; địa chỉ: tổ 3, khu Đ, phường P, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

4. Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1976; địa chỉ: tổ 3, khu B, phường P, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 02/11/2019, Phạm Văn L có giấy phép lái xe hạng A1 số T224907 do Sở giao thông vận tải tỉnh Quảng Ninh cấp ngày 08/9/2004, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát (BKS): 15-398-P5 đến nhà Dương Văn H thuộc tổ 3, khu Đ, phường P, thành phố Uông Bí để ăn cưới. Tại đám cưới, L ngồi ăn và uống bia rượu cùng anh Nguyễn Văn T (trú tại tổ 3, khu Đ, phường P),anh Nguyễn Văn Đ (trú tại tổ 3, khu B, phường P, thành phố Uông Bí) và 01 số người bạn khác. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, sau khi ăn cưới xong, L rủ các anh T và Đ đến nhà bạn là anh Vũ Văn P thuộc tổ 2, khu H, phường P, thành phố Uông Bí chơi. Sau đó, L điều khiển xe mô tô BKS: 15-398-P5 chở anh T và anh Đ ngồi sau, đi từ nhà anh H, di chuyển theo hướng đi Quốc lộ 10. Đến đoạn đường liên khu thuộc tổ 3, khu C, phường P, do trong người có rượu bia không làm chủ được tay lái, nên L đã điều khiển xe mô tô đi sang phần đường bên trái và đâm vào xe mô tô BKS: 16H8-5255 do anh Lý Văn T (trú tại thôn 7, xã L, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng) điều khiển chở phía sau anh Lê Văn T (trú tại thôn C, xã L, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng) đi ngược chiều, làm 02 xe mô tô bị đổ, cả 05 người bị ngã ra đường. Hậu quả: Cả 05 người bị thương tích, 02 phương tiện hư hỏng nhẹ.

Kết quả khám nghiệm hiện trường: Vị trí tai nạn xảy ra tai nạn mặt đường trải bê tông bằng phẳng, khô ráo, hướng đường thẳng, lòng đường rộng 5m60. Khám nghiệm hiện trường theo hướng Quốc lộ 10 đi Quốc lộ 18A, lấy chân trụ cổng bên phải nhà bà Vũ Thị B gần lề đường bên phải làm mốc cố định, mép đường bên phải làm chuẩn. Xe mô tô BKS: 15-398-P5 nằm đổ bên phải trên mặt đường, đầu xe hướng đi Quốc lộ 18A, chếch hướng lề đường bên phải; tâm trục lốp trước và sau cách lề đường bên phải lần lượt 3,35 m và 3,05 m; từ vị trí tâm trục lốp trước xe mô tô BKS: 15-398-P5 hướng đi Quốc lộ 18A chếch hướng lề đường bên phải 2,2 m là vị trí tâm trục lốp trước của xe mô tô BKS: 16H8-5255. Xe mô tô BKS: 16H8-5255 nằm đổ bên phải trên mặt đường, đầu xe hướng đi Quốc lộ 18A, chếch hướng lề đường bên trái; tâm trục lốp trước và sau cách lề đường bên phải lần lượt 1,9 m và 1,3 m; từ tâm trục lốp sau của xe mô tô BKS: 15- 398-P5 hướng lề đường bên phải chếch hướng đi Quốc lộ 10 cách 1,3m là vị trí tâm đám máu số 01 kích thước (0,4 x 0,3)m, cách lề đường bên phải 2,3m; từ tâm đám máu số 01 theo hướng đi Quốc lộ 18A chếch hướng lề đường bên phải 0,55m là tâm đám máu số 02, kích thước (0,45 x 0,35)m, cách lề đường bên phải 1,9 m; từ tâm đám máu số 03 theo hướng đi Quốc lộ 18A, chếch hướng lề đường bên trái 0,8m là tâm đám máu số 03, kích thước (0,5 x 0,5)m, cách lề đường bên phải 2,4m; tại tâm đám máu số 03 có nhiều mảnh vỡ gương xe mô tô. Toàn bộ dấu vết, mảnh vỡ phương tiện đều nằm trên phần đường bên phải.

Kết quả khám nghiệm xe mô tô BKS 15-398-P5: Vỡ mặt gương chiếu hậu bên trái; gáo gương chiếu hậu bên phải mài trượt nhựa (6 x 3)cm; nhựa ốp cổ xe bị nứt dài 09 cm; Đầu tay lái phía bên phải mài trượt kim loại (3,5 x 3,5)cm; tay phanh bên phải bị đẩy cong gập hướng từ sau về trước, từ phải sang trái, đầu tay phanh mài trượt kim loại (3 x 0,5)cm; nhựa ốp đèn xi nhan phía trước bên phải bục vỡ (2 x 2)cm; cánh yếm phía trước bên phải và bên trái đều nứt vỡ (50 x 15)cm; rọ xe bị đẩy cong bẹp từ trước về sau; chắn bùn lốp trước nứt vỡ thành nhiều đám, trượt xước bám dính chất màu đỏ dạng sơn nằm rải rác; lốp xe phía trước hết hơi, vành xe cong bẹp; càng xe phía trước bị đẩy cong từ phải sang trái; đầu chân phanh mài trượt kim loại (3 x 2)cm; bàn để chân phía trước bên phải bị đẩy cong gập hướng từ trước về sau, phần đầu mài trượt cao su (4 x 2)cm.

Kết quả khám nghiệm xe mô tô BKS 16H8-5255: Góc trái nhựa ốp đầu xe bung bật (12 x 2)cm; vỡ toàn bộ cụm đèn chiếu sáng phía trước và cánh yếm bên trái; góc bên trái nhựa ốp cụm đèn chiếu sáng phía trước, cánh yếm bên phải và mặt nạ phía trước đều bị nứt vỡ lần lượt (9 x 3)cm, (27 x 20)cm và (10 x 2)cm; chắn bùn lốp trước bung bật, nứt vỡ, trượt xước bám dính chất màu đen dạng sơn (40 x2 3)cm; lốp trước hết hơi, vành cong bẹp; bàn đạp sườn xe bên phải bị đẩy cong gập từ sau về trước; góc dưới bàn để chân phía sau bên phải, góc bên phải giá bảo hiểm yên, đầu tay phanh phía trước bên phải và đầu tay lái phía trước bên phải đều bị mài trượt lần lượt (2 x 3)cm, (5 x 3)cm, 0,5 x 0,5)cm và (3 x 3)cm; càng xe phía trước bị đẩy cong gập từ phải sang trái.

Kết quả xét nghiệm định lượng Ethanol (cồn) trong máu của Phạm Văn L hồi 22 giờ 13 phút ngày 02/11/2019 là 200,05 mg/dl.

Tại các bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 110/GĐTT ngày 06/12/2019; số 115/GĐTT ngày19/12/2019; số 116/GĐTT ngày 08/12/2019; số 118/GĐTT ngày 21/12/2019 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Quảng Ninh kết luận:

+ Thương tích Nguyễn Văn Đ gồm: sẹo vùng trán thái dương trái (2x0,3)cm, sẹo kích thước nhỏ. Hiện tại sức khoẻ bị giảm do thương tích 01%.

+ Thương tích Nguyễn Văn T gồm: sẹo vùng trán phải (6,5x0,4) cm, kích thước trung bình; rạn xương trán dài 03cm. Hiện tại sức khoẻ bị giảm do thương tích cộng lùi là 14%.

+ Thương tích Lê Văn T gồm: sẹo mổ hình cung vùng đỉnh – thái dương trái (18x0,2)cm, sẹo lớn; vỡ xương thái dương - đỉnh phải; vỡ lún xương đỉnh 02 bên, đã được phẫu thuật nâng xương lún; Tụ máu ngoài màng cứng vùng trán - đỉnh trái, đã được mổ lấy máu tụ, không để lại di chứng thần kinh; rạn xương trán dài 03cm. Hiện tại sức khoẻ bị giảm do thương tích cộng lùi là 33%.

+ Thương tích Lý Văn T gồm: sẹo vùng chẩm (2x0,2)cm, sẹo nhỏ; sẹo mổ can thiệp cung mày trái (2x0,1)cm, sẹo thái dương – gò má trái (2x01)cm, sẹo mổ can thiệp dưới mi mắt phải (2x01)cm, sẹo mép môi trên bên trái (01x0,2)cm đều là sẹo nhỏ vùng mặt; Gãy xương hàm trên, gãy xương cung tiếp gò má trái; Gãy không di lệch xương chính mũi; Vỡ thành trước và bên xoang hàm phải, vỡ thành xoang hàm trái và gãy thành ngoài hốc mắt trái, không ảnh hưởng đến thị lực. Hiện tại sức khoẻ bị giảm do thương tích cộng lùi là 32%. Tng tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn T, Lê Văn T, Lý Văn T là 80%.

Tại bản Cáo trạng số 41/CT-VKSUB ngày 20/3/2020, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố bị cáo Phạm Văn L về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự .

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận có hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

Bị hại anh Lý Văn T, anh Lê Văn T, anh Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình điều tra có lời khai thể hiện và về phần dân sự các bên đã tự nguyện thỏa thuận, tài sản bị thu giữ đã được nhận lại, các bị hại không có yêu cầu gì thêm và đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm cho bị cáo (từ bút lục 102 đến 114, từ bút lục 163 đến 165) Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí thực hành quyền công tố tại phiên toà như bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; khoản 1,2,5 Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: bị cáo Phạm Văn L từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 48 tháng đến 60 tháng. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã L, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng nơi bị cáo đang cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách;

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe không liên quan đến hành vi phạm tội.

Bị cáo không tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội và xin được giảm nhẹ hình phạt, cải tạo tại địa phương để có điều kiện chăm sóc mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng: Những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, các bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc vắng mặt các bị hại: Ti phiên tòa các bị hại vắng mặt. Hội đồng xét thấy, những người này đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ nên việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, phiên tòa vẫn được tiến hành theo quy định.

[2] Về tội danh và hình phạt:

2.1 Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại và kết quả khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông, bản kết luận giám định pháp y thương tích cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 02/11/2019, tại đoạn đường liên khu thuộc tổ 3, khu C, phường P, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Phạm Văn L (có giấy phép lái xe mô tô hạng A1) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, BKS: 15 – 398 – P5 trong tình trạng có sử dụng bia, rượu (nồng độ cồn trong máu là 200,05 mg/dl) chở anh Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Văn Đ theo hướng từ khu C đi Quốc lộ 10. Do L điều khiển xe mô tô đi lấn sang phần đường của các phương tiện giao thông đi ngược chiều, nên đã đâm vào xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 16H8-5255 do anh Lý Văn T điều khiển, chở anh Lê Văn T đi ngược chiều. Hậu quả: Anh Nguyễn Văn T bị thương tích tổn hại 14% sức khỏe; anh Đ bị thương tích tổn hại 01% sức khỏe; Anh Lý Văn T bị thương tích tổn hại 32% sức khỏe; anh T bị thương tích tổn hại 33% sức khỏe. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của 04 người là 80%.

Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện lỗi vô ý, bị cáo điều khiển xe ô tô tham gia giao thông khi trong máu có nồng độ cồn, đi ln phần đường của phương tiện giao thông đi ngược chiều gây tai nạn, hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định tại khoản 8 Điều 8 Luật giao thông đường bộ : ..“8. Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25miligam/01 lít khí thởvà khoản 1 Điều 9 Lut giao thông đường bộ.. “1. Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ”... Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

2.2 Về hình phạt:

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng các bị hại đều xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo nhưng hành vi vi phạm tội bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ mà còn gây thiệt về sức khoẻ, tài sản của người khác nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vi phạm của mình và cần phải có mức hình phạt nhất định để giáo dục riêng đối với bị cáo cũng như để phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, các bị hại đều đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Bố bị cáo là ông Phạm Văn Đ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến Hạng Nhất, Hạng Nhì và Huân chương chiến sĩ vẻ vang Hạng Nhất, Hạng Nhì, Hạng Ba. Uỷ ban nhân dân xã L, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xác nhận bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, đang một mình nuôi dưỡng mẹ già và trong thời gian qua, khi có dịch Covid 19, bị cáo là thành viên xuất sắc đã của tổ tuyên truyền phòng chống dịch, trực chốt kiểm dịch thôn B. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, trong đó có hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên có căn cứ quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[4] Về chấp hành hình phạt: Hội đồng xét xử thấy rằng năm 2005, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng kết án 03 năm tù về tội “Tàng trữ tiền giả” nhưng đã được xóa án tích. Cho đến nay bị cáo luôn chấp hành tốt các chính sách pháp luật, tham gia tích cực phong trào xã hội, đặc biệt được sự ghi nhận của chính quyền địa phương trong công tác tuyên truyền, trực chốt kiểm dịch trong đợt chống dịch Covid 19 vừa qua. Bị cáo thực hiện lỗi vô ý, hành vi vi phạm an toàn giao thông của bị cáo chưa gây hậu quả nghiêm trọng dẫn đến chết người, các bị hại đều đề nghị được tự thỏa thuận, miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bản thân bị cáo cũng bị tổn hại sức khỏe cao nhất trong vụ tại nạn (36%), hiện tại sức khỏe yếu. Vì vậy, thấy rằng có thể xem xét, không cần thiết phải buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo, tự cải tạo, có sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú cũng đảm bảo tính răn đe, việc này không gây nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là phù hợp hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ớng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo”, cũng như thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật nước ta.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho anh Lê Văn T 35.000.000đồng, anh Lý Văn T 5.000.000 đồng, các bên đã tự thỏa thuận, không yêu cầu gì thêm. Anh Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Văn Đ, tự nguyện không yêu cầu bồi thường gì nên không đề cập giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 giấy phép lái xe số 1224907 mang tên Phạm Văn L, hiện đang lưu trong hồ sơ được xác định bị cáo là chủ sở hữu hợp pháp, cần trả lại ngay bị cáo và việc trả này không làm ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án. Đối với xe ô tô biển kiểm soát 18H6 -5255 cùng các giấy tờ liên quan, Cơ quan điều tra xác định thuộc sở hữu hợp pháp của anh Lý Văn T và đối với xe mô tô BKS 15- 398-P5 cùng các giấy tờ liên quan xác minh bị cáo là người quản lý, sử dụng hợp pháp đã trả lại nên không đề cập giải quyết.

[7] Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, các bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; các khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự; điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn L phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn L 24 (hai mươi tư) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh theo Quyết định số 02/2020/HSST-QĐBL ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đối với bị cáo Phạm Văn Lưu.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe số 1224907, cấp ngày 08/9/2004 mang tên Phạm Văn L.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, danh mục án phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Phạm Văn L phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 62/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:62/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;