Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 10/07/2020 về ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI, TỈNH BẠC LIÊU

 BẢN ÁN 62/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/07/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 10 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 289/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2020/QĐXX-ST ngày 05 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trương Thị B, sinh năm 1982. Địa chỉ: Ấp CK, xã AP, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

Bị đơn: Anh Huỳnh Văn H, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Ấp CK, xã AP, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu. (chị B có mặt, anh H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, chị Trương Thị B trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh H chung sống vào năm 2003 trên tinh thần tự nguyện, cha mẹ có tổ chức đám cưới theo phong tục tại địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AP, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu vào năm 2005 theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo chị B trình bày do trong thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm, cuộc sống của vợ chồng luôn căng thẳng, không còn hạnh phúc. Anh H mỗi khi uống rượu về là cự cãi với chị, có lời lẽ xúc phạm đến chị và mẹ chị. Vợ chồng cũng đã nhiều lần hòa giải, hàn gắn nhưng không thành. Vợ chồng sống ly thân hơn 01 năm, trong khoảng thời gian sống ly thân chị cũng nhiều lần chủ động liên lạc với anh H nhưng anh H không nghe điện thoại. Xét thấy vợ chồng tiếp tục chung sống cũng không còn hạnh phúc nên chị yêu cầu ly hôn.

Về con: Chị và anh H có 03 người con chung là Huỳnh Kim Th, sinh ngày 09/7/2004, Huỳnh Chúc L, sinh ngày 13/6/2013; Huỳnh Nhật L, sinh ngày 24/5/2019 hiện đang sống cùng chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi 03 người con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Huỳnh Văn H trình bày tại biên bản ghi lời khai và biên bản hòa giải ngày 05/6/2020.

Về hôn nhân: Anh và chị B chung sống vào năm 2003, trên tinh thần tự nguyện, được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới theo phong tục tại địa phương và có đến Ủy ban nhân dân xã AP, huyện ĐH đăng ký kết hôn.

Trong thời gian chung sống vợ chồng cũng có phát sinh mâu thuẫn, nhưng chỉ là mâu thuẫn nhỏ. Theo chị B thì anh có lời nói xúc phạm đến chị B và mẹ chị B là có. Tuy nhiên lúc nói là anh đang ngủ bị mộng du, không kiểm soát được lời nói, hành vi của mình, anh không cố tình. Vợ chồng có sống ly thân hơn 01 năm, trong thời gian sống ly thân thì chị B có chủ động liên lạc với anh nhưng lúc đó còn mâu thuẫn nên anh không nghe điện thoại. Nay anh xác định còn thương chị B nên không đồng ý ly hôn, mong muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi dạy con.

Về con chung: Vợ chồng có 03 người con gồm Huỳnh Kim Th, sinh ngày 09/7/2004, Huỳnh Chúc L, sinh ngày 13/6/2013; Huỳnh Nhật L, sinh ngày 24/5/2019 đang sống cùng chị B. Trường hợp vợ chồng phải ly hôn anh đồng ý giao các con cho chị B tiếp tục nuôi dưỡng và không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm cho rằng: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng quy định Luật tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành đúng theo triệu tập của Tòa án.

Nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 2003, chị B và anh H tự nguyện yêu thương, chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, do đó hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Tuy nhiên, trong thời gian chung sống giữa chị B và anh H phát sinh nhiều mâu thuẫn và sống ly thân hơn 01 năm, trong thời gian sống ly thân anh chị không tìm biện pháp để hòa giải, hàn gắn. Xét thấy hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần cho chị B ly hôn với anh H là phù hợp.

Về con chung: 03 người con chung hiện nay đang sống cùng chị B, khi ly hôn chị B và anh H thống nhất giao các con cho chị B nuôi dưỡng nên cần ghi nhận sự thỏa thuận này của các đương sự.

Về tài sản và nợ: chị B và anh H không yêu cầu nên không xem xét.

Về án phí hôn nhân chị Trương Thị B nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải về tuân theo pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Trương Thị B khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Huỳnh Văn H, anh H có địa chỉ cư trú tại ấp CK, xã AP, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.

Anh Huỳnh Văn H được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham dự phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt anh Huỳnh Văn H.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Năm 2003, chị B và anh H tự nguyện yêu thương, chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AP theo quy định của pháp luật. Do đó, hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Theo chị B xác định trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, anh H không tôn trọng chị và mẹ chị, đời sống hôn nhân không hạnh phúc nên yêu cầu ly hôn, còn anh H xác định, trong thời gian chung sống vợ chồng cũng có phát sinh mâu thuẫn nhưng là mâu thuẫn nhỏ, có thể hàn gắn được nên không đồng ý ly hôn.

Hội đồng xét xử xét thấy: Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ. Tuy nhiên, qua thời gian chung sống giữa chị B và anh H đã không thực hiện được mà còn phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến sống ly thân hơn 01 năm. Trong khoảng thời gian sống ly thân chị B đã chủ động liên lạc với anh H nhưng anh không nghe điện thoại, không thể hiện thiện chí hàn gắn, Tòa án đã triệu tập anh để dự phiên tòa hai lần nhưng anh vắng mặt không có lý do. Điều đó cho thấy anh H không có thiện chí hòa giải, hàn gắn để tiếp tục chung sống với chị B, hiện nay chị B vẫn cương quyết ly hôn với anh H. Xét thấy hôn nhân của chị B và anh H đã lâm vào trình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần cho chị B được ly hôn với anh H là phù hợp.

[2.2]. Về con chung: 03 người con chung là Huỳnh Kim Th, sinh ngày 09/7/2004, Huỳnh Chúc L, sinh ngày 13/6/2013; Huỳnh Nhật L, sinh ngày 24/5/2019 hiện nay đang sống cùng chị B, khi ly hôn chị B và anh H thống nhất giao các con chung cho chị B tiếp tục nuôi dưỡng. Ngoài ra, qua làm việc hai người con Huỳnh Chúc L và Huỳnh Kim Th có nguyện vọng muốn sống cùng chị B. Do đó cần ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự, giao 03 người con Huỳnh Kim Th, sinh ngày 09/7/2004, Huỳnh Chúc L, sinh ngày 13/6/2013; Huỳnh Nhật L, sinh ngày 24/5/2019 cho chị B tiếp tục nuôi dưỡng. Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm con chung không ai được cản trở.

Chị B không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

[2.3]. Về tài sản chung và nợ: Chị B và anh H không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí sơ thẩm hôn nhân: chị B phải nộp số tiền 300.000 đồng, được đối trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho chị Trương Thị B ly hôn với anh Huỳnh Văn H.

2. Về con chung: Giao 03 người con chung là Huỳnh Kim Th, sinh ngày 09/7/2004, Huỳnh Chúc L, sinh ngày 13/6/2013; Huỳnh Nhật L, sinh ngày 24/5/2019 cho chị Trương Thị B tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Huỳnh Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm con chung không ai được cản trở.

Chị Trương Thị B không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ: Chị Trương Thị B và anh Huỳnh Văn H không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm hôn nhân: Chị Trương Thị B nộp số tiền 300.000 đồng, chị Trương Thị B đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng vào ngày 15/5/2020 theo biên lai thu tiền số 0007624 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hải được chuyển thu án phí.

Án xử công khai, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 10/07/2020 về ly hôn, nuôi con

Số hiệu:62/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;