TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 62/2020/HNGĐ-ST NGÀY 04/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG
Ngày 04 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý 34/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 174/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 125/2020/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Kim T, sinh ngày 20/12/1988.
Địa chỉ: Số 434/1, ấp M, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
2. Bị đơn: ông Trần Lý B, sinh năm 1987.
Địa chỉ: Số 434/1, ấp M, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Kim T trình bày:
Bà Nguyễn Thị Kim T và ông Trần Lý B chung sống với nhau được cha, mẹ hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán vào năm 2009 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kế An, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Số 18, Quyển số 01/2012, ngày 16/3/2012. Quá trình chung sống ông, bà có 01 người con chung tên Trần Đăng K, sinh ngày 28/9/2012 hiện đang sống với bà T. Do vợ chồng không cùng quan điểm sống nên cuộc sống hôn nhân không thể tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông, bà đã ly thân nhau từ đầu năm 2018 đến nay. Về tài sản chung và nợ chung:
Không có.
Nay bà T yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng giải quyết:
- Về hôn nhân: Yêu cầu xin ly hôn với ông Trần Lý B, sinh năm 1987.
- Về con chung: Bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung là cháu Trần Đăng K, sinh ngày 28/9/2012 hiện đang sống với bà T. Bà không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải
Đối với bị đơn ông Trần Lý B: Trong quá trình giải quyết vụ án ông không có ý kiến gì và cũng không yêu cầu phản tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng phát biểu:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và tư cách của người tham gia tố tụng đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Theo các tài liệu thể hiện trong hồ sơ và tại phiên tòa sơ thẩm. Đại diện Viện kiểm sát nhận thấy mối quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông B đã mâu thuẫn trầm trọng. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T, cho bà T được ly hôn với ông B.
Về con chung: Do con chung là cháu Trần Đăng K, sinh ngày 28/9/2012 hiện nay đang sống cùng với bà T, ông B không có yêu cầu nuôi con và cháu K có nguyện vọng sống với bà T nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T, giao con chung cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vọng của cháu K và ý kiến của Phòng Lao động Thương binh xã hội huyện Kế Sách.
Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa, do bà T không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.
Về tài sản chung và nợ chung bà T tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.
Về án phí: đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
Tại phiên tòa bị đơn ông Trần Lý B vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do. Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tống đạt hợp lệ tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án cho ông B nhưng ông B không có ý kiến gì, trong đó có Thông báo số 123/2020/TB-TA, ngày 12/3/2020 về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, và công khai chứng cứ, đã hết thời hạn ấn định trong thông báo nhưng ông B không có ý kiến gì nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông B theo qui định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
Bà T và ông B có đăng ký kết hôn vào ngày 16/3/2012, do bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Bà T và ông B đã ly thân từ đầu năm 2018 đến nay. Theo biên bản xác minh của Tòa án ngày 21/2/2020: thì nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp là do vợ chồng không cùng quan điểm nên đã ly thân nhau từ đầu năm 2018 đến nay. Ông B biết việc bà T khởi kiện nhưng ông không đến Tòa án vì ông bận công việc riêng. Ông B không có ý kiến gì về con chung. Xét thấy, mối quan hệ vợ chồng giữa nguyên đơn và bị đơn đã thật sự tan vỡ, không còn khả năng hàn gắn, đoàn tụ. Bỡi lẽ, theo lời trình bày của nguyên đơn và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở để xác định cuộc sống vợ chồng giữa nguyên đơn và bị đơn không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyên đơn yêu cầu ly hôn bị đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về con chung:
Theo lời khai của nguyên đơn và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, giữa nguyên đơn và bị đơn có 01 (một) người con chung tên Trần Đăng K, sinh ngày 28/9/2012, trước đây cháu sống với ông B nhưng hiện đã về sống với bà T. Tại phiên Tòa, nguyên đơn yêu cầu được tiếp tục được nuôi con chung, không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng. Riêng bị đơn không có ý kiến gì về con chung.
Xét thấy, con chung đang được nguyên đơn nuôi dưỡng ổn định, đồng thời để tránh những xáo trộn trong đời sống, tâm sinh lý, gây ra những ảnh hưởng không tốt đến việc phát triển bình thường của con chung nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu về nuôi con chung của nguyên đơn, giao con chung là cháu Trần Đăng K, sinh ngày 28/9/2012 hiện đang sống với nguyên đơn cho nguyên đơn tiếp tục nuôi dưỡng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của cháu K. Việc giao con chung cho nguyên đơn tiếp tục nuôi dưỡng cũng phù hợp với ý kiến của Phòng Lao động Thương binh xã hội huyện Kế Sách tại công văn số: 155/P.LĐTBXH ngày 21/7/2020. Do nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[4] Về tài sản chung: Do nguyên đơn tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.
[5] Về nợ chung: Do nguyên đơn tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[7] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng phù hợp và có căn cứ nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự:
Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình:
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị Kim T ly hôn ông Trần Lý B.
[2] Về con chung: Giao con chung là cháu Trần Đăng K, sinh ngày 28/9/2012 hiện đang sống với bà Nguyễn Thị Kim T cho bà Nguyễn Thị Kim T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục theo quy định của pháp luật, theo nguyện vọng của cháu K và ý kiến của Phòng Lao động Thương binh xã hội huyện Kế Sách. Ông Trần Lý B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Ông Trần Lý B không cấp dưỡng nuôi con chung do bà Nguyễn Thị Kim T không yêu cầu.
[3] Về tài sản chung: Do bà Nguyễn Thị Kim T tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.
[4] Về nợ chung: Do bà Nguyễn Thị Kim T tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Kim T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng bà Nguyễn Thị Kim T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002630 ngày 03/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách không nộp thêm. Ông Trần Lý B không chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Báo cho nguyên đơn đựơc quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại địa phương, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 04/08/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con chung
Số hiệu: | 62/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 04/08/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về