Bản án 62/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 62/2019/HS-ST NGÀY 27/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27/3/2019 tại Tòa án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2019/TLST-HS ngày 01/3/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn T, sinh năm 2000, tại tỉnh Đắk Lắk;

Nơi cư trú: Thôn A, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Phạm Văn T1, sinh năm 1981, trú tại: Thôn A, xã H, thành phố B; con bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1982, trú tại: Xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên (đã ly hôn); bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 09 tháng 10 năm 2018, thực hiện hành vi phạm tội Trộm cắp tài sản. Ngày 17 tháng 12 năm 2018, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17 tháng 12 năm 2018, cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

01. Ông Lê Văn H– Sinh năm 1965

Địa chỉ: Thôn C, xã H, thành phố B, Đắk Lắk – Vắng mặt

02. Ông Đào Xuân N – Sinh năm 1989

Địa chỉ: Thôn D, xã H2, thành phố B, Đắk Lắk – Vắng mặt 

03. Ông Nguyễn Minh T – sinh năm 1991

Địa chỉ: khu công nghiệp H, thôn A, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk - Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ sáng ngày 09/10/2018, Phạm Văn T một mình đi bộ đến Khu công nghiệp H, trên địa bàn thôn A, xã H, thành phố B, mục đích tìm kiếm tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Khi đi đến trước khu vực kho hải quan của Ngân hàng Quân Đội (thuộc khu công nghiệp H), quan sát thấy cửa cổng kho hải quan đóng, xung quanh vắng người qua lại. T trèo qua hàng rào đột nhập vào bên trong khuôn viên của kho hải quan. Sau đó, đi đến phòng bảo vệ và dùng tay mở cửa đi vào bên trong. Lúc này, trong phòng bảo vệ có ông Lê Văn H (sinh năm 1965, trú tại: Thôn C, xã H, thành phố B, là nhân viên bảo vệ) đang nằm ngủ, trên đầu giường có để 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC 820G Plus, màu đen. T đi lại lén lút trộm cắp chiếc điện thoại di động của ông H, rồi đi ra ngoài và trèo qua hàng rào tẩu thoát. T tiếp tục đi đến Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên DK – Chi nhánh Đắk Lắk (trụ sở đặt tại khu công nghiệp H) và trèo qua hàng rào đột nhập vào bên trong khuôn viên công ty, rồi đi đến phòng bảo vệ dùng tay mở cửa đi vào bên trong. T thấy ông Đào Xuân N (sinh năm 1989, trú tại: Thôn D, xã H1, thành phố B, là nhân viên bảo vệ) đang nằm ngủ, nên lén lút đi lại chiếc bàn để máy vi tính và lục tìm tài sản trong ngăn kéo bàn, thấy có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu C5, loại 16GB, màu trắng, đang cắm sạc pin, gần đó phía trên tường có treo 01 cục sạc điện thoại di động dự phòng, màu đen - đỏ. T lấy chiếc điện thoại và cục sạc dự phòng cất giấu vào túi quần, rồi đi ra ngoài, đến phòng Bộ phận kỹ thuật của công ty DK. Tại đây, T dùng tay mở cửa phòng để đột nhập vào trong, nhưng do cửa phòng khoá nên T đi lại mở cửa sổ, trèo theo lối cửa sổ vào bên trong phòng kỹ thuật. Khi vào bên trong T thấy ông Nguyễn Minh T (sinh năm 1991, trú tại: Thôn A, xã H, thành phố B, là nhân viên của công ty) đang nằm ngủ trên chiếc nệm trải dưới nền nhà, trên nệm có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7, màu vàng và 01 chiếc ví. T lén lút trộm cắp 02 chiếc điện thoại di động và lấy hết số tiền có trong ví, rồi đi ra ngoài trèo qua hàng rào tẩu thoát. Trên đường đi về, T lấy số tiền trộm cắp được của ông Nguyễn Minh T ra đếm thấy có tổng số tiền 1.900.000 đồng, gồm: 10 tờ tiền Việt Nam đồng mệnh giá 100.000 đồng, 02 tờ tiền Việt Nam đồng mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ tiền Việt Nam đồng mệnh giá 500.000 đồng. Sau đó, T đi về phòng trọ do bạn của T thuê tại địa chỉ: Thôn A, xã H, thành phố B, ngủ lại. Sau khi phát hiện bị mất tài sản ông Lê Văn H, ông Đào Xuân N và ông Nguyễn Minh T đã trình báo vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, yêu cầu giải quyết. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ của Phạm Văn T: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC 820G Plus, màu đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony C5, màu trắng loại 16GB; 01 cục sạc điên thoại dự phòng màu đen - đỏ (có ghi chữ “Safairi 5” Model: BST-008E, Capa City, Rated Energy 37Wh); 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7, màu vàng và số tiền 1.400.000 đồng, là tang vật chứng của vụ án.

Tại bản kết luận định giá tài sản, số: 261/KLĐG ngày 29 tháng 11 năm 2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Tp. B, kết luận:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC 820G Plus, màu đen; trị giá: 1.100.000 đồng;

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony C5 (16GB), màu trắng; trị giá: 1.200.000 đồng;

- 01 cục sạc dự phòng màu đen- đỏ, bề mặt cục sạc ghi chữ “Safairi 5” Model BST-008E, Capa City, Rated Energy 37Wh; trị giá: 10.000 đồng;

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen; trị giá: 150.000 đồng;

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7, màu vàng; trị giá: 2.300.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản là: 4.760.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC 820G Plus, màu đen, là tài sản của ông Lê Văn H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony C5, màu trắng loại 16GB và 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu đen- đỏ, bề mặt cục sạc ghi chữ “Safairi 5” Model: BST-008E, Capa City, Rated Energy 37Wh, là tài sản của ông Đào Xuân N; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7, màu vàng và số tiền 1.400.000 đồng, là tài sản của ông Nguyễn Minh T. Ngày 07/01/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho ông H, ông N và ông T, nhận quản lý, sử dụng. Sau khi nhận lại tài sản ông H, ông N và ông T không yêu cầu Phạm Văn T bồi thường gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số 69/CT-VKSTP.BMT ngày 01/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Văn T khai nhận hành vi phạm tội đúng như đã khai nhận tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột và phù hợp với nội dung truy tố tại bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Văn T và giữ nguyên quyết định truy tố tại bản Cáo trạng số 69/CT-VKSTP.BMT ngày 01/3/2019. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T với mức án từ 06 đến 09 tháng tù.

- Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 585, Điều 589 Bộ luật dân sự.

Đề nghị chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, quyết định xử lý vật chứng, trao trả: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC 820G Plus, màu đen, là tài sản của ông Lê Văn H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony C5, màu trắng loại 16GB và 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu đen-đỏ, bề mặt cục sạc ghi chữ “Safairi 5” Model: BST-008E, Capa City, Rated Energy 37Wh, là tài sản của ông Đào Xuân N; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7, màu vàng và số tiền 1.400.000 đồng, là tài sản của ông Nguyễn Minh T nhận quản lý, sử dụng. Chấp nhận việc sau khi nhận lại tài sản ông H, ông N và ông T không yêu cầu Phạm Văn T bồi thường gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Phạm Văn T tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận:

Vào khoảng 01 giờ sáng ngày 09 tháng 10 năm 2018, tại Khu công nghiệp H, thuộc thôn A, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Phạm Văn T đã lén lút trộm cắp: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC 820G Plus, màu đen của ông Lê Văn H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony C5, màu trắng loại 16GB và 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu đen- đỏ của ông Đào Xuân N; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7, màu vàng và số tiền 1.900.000 đồng của ông Nguyễn Minh T, thì bị phát hiện xử lý. Xác định tổng giá trị tài sản Phạm Văn T đã trộm cắp là: 6.660.000 đồng (sáu triệu sáu trăm sáu mươi ngàn đồng).

Hành vi của bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”

Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là công dân có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống và biết được rằng tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật đều bị xử phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, xuất phát từ ý thức coi thường pháp luật, muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động nên bị cáo Phạm Văn T đã có hành vi trộm cắp tài sản của ông Lê Văn H, ông Đào Xuân N, ông Nguyễn Minh T với tổng trị giá là 6.660.000 đồng. Hành vi của bị cáo không những đã xâm hại đến tài sản của người khác mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội địa phương. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vi phạm của mình và cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[2] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Văn T thực hiện hành vi khi chưa đủ 18 tuổi, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, cha mẹ bị cáo ly hôn khi bị cáo còn nhỏ tuổi nên bị cáo không nhận được sự chăm sóc, giáo dục một cách đầy đủ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3] Đối với tờ tiền Việt Nam đồng mệnh giá 500.000 đồng, trong tổng số tiền 1.900.000 đồng bị cáo Phạm Văn T trộm cắp của ông Nguyễn Minh T. T khai trên đường tẩu thoát đã làm rơi mất tờ tiền này. Tại Cơ quan điều tra ông T không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường, nên không đề cập giải quyết là phù hợp.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 585, Điều 589 BLDS.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, quyết định xử lý vật chứng, trao trả: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC 820G Plus, màu đen, là tài sản của ông Lê Văn H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony C5, màu trắng loại 16GB và 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu đen- đỏ, bề mặt cục sạc ghi chữ “Safairi 5” Model: BST-008E, Capa City, Rated Energy 37Wh, là tài sản của ông Đào Xuân N; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7, màu vàng và số tiền 1.400.000 đồng, là tài sản của ông Nguyễn Minh T nhận quản lý, sử dụng.

Sau khi nhận lại tài sản ông H, ông N và ông T không yêu cầu Phạm Văn T bồi thường gì thêm.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không xuất trình thêm chứng cứ, tài liệu gì, bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 585, Điều 589 BLDS.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã trả lại 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC 820G Plus, màu đen cho ông Lê Văn H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony C5, màu trắng loại 16GB và 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu đen- đỏ, bề mặt cục sạc ghi chữ “Safairi 5”

Model: BST-008E, Capa City, Rated Energy 37Wh cho ông Đào Xuân N; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7, màu vàng và số tiền 1.400.000 đồng cho ông Nguyễn Minh T là các chủ sở hữu tài sản nhận quản lý, sử dụng.

Chấp nhận việc ông Lê Văn H, ông Đào Xuân N, ông Nguyễn Minh T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 62/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:62/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;