Bản án 62/2019/HS-ST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 62/2019/HS-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 24 tháng 5 năm 2019 tại Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2019/HSST, ngày 12 tháng 4 năm 2019 Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2019/HSST-QĐ ngày 13/5/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thanh T - Tên gọi khác: không Sinh ngày 25/5/1984, tại thành phố D, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: Tổ 80, khu 7A, phường CP, thành phố D, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lái xe phân xưởng 4 Công ty Tây Nam Đá Mài; Trình độ học vấn: Lớp 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Duy Ph, sinh năm 1959 và bà Bùi Thị Kim L, sinh năm 1958; Vợ: Nguyễn Thị V, sinh năm 1985; Có 1 con, sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân:

+ Năm 2007, tòa án nhân dân thị xã Cẩm Phả (nay là thành phố) Cẩm Phả xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

+ Năm 2010, Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Cẩm Phả xử phạt 04 tháng tù về tội “Đánh bạc” (số tiền đánh bạc 2.120.000 đồng). Đã chấp hành xong hình phạt tù về địa phương ngày 03/01/2012.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 29/01/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cẩm Phả - Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Trần Duy Ph, sinh năm 1959; Nơi cư trú: Tổ 80, khu 7A, phường CP, thành phố D- có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Các anh Trịnh Văn H, sinh năm 1974; Nguyễn Thanh T, sinh năm 1962 - vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 20 giờ 15 phút ngày 29/01/2019, tại tổ 30, khu 2B, phường CP, thành phố D, tỉnh Quảng Ninh, Công an thành phố Cẩm Phả bắt quả tang Trần Thanh T có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ của T gồm: Thu tại túi áo khóa phía trong bên trái T đang mặc 140.000 đồng và 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh có sọc trắng được hàn kín 02 đầu, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, T khai là ma túy đá; thu tại túi áo khoác phía ngoài bên trái Tùng đang mặc 01 điện thoại Iphone màu xám lắp sim số 0372984333; 01 xe máy WAVE màu đen biển số (BS) 14U1-053.10 Tại bản kết luận giám định số 238/GĐMT ngày 31/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong đoạn ống hút nhựa thu của Trần Thanh T gửi giám định có khối lượng 0,443 gam là chất ma túy, loại Methamphetamine. Hoàn lại mẫu vật sau giám định 0,39 gam.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Thanh T khai nhận: Bị cáo sử dụng ma túy đá từ năm 2017. Khoảng 20 giờ ngày 29/01/2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên Tùng gọi điện cho H (Hu) là bạn xã hội để hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá. H đồng ý và hẹn bị cáo đến nhà H ở khu vực cầu 5, phường CS, thành phố D để giao ma túy. Sau đó bị cáo đi xe mô tô nhãn hiệu WAVE màu đen biển số (BS) 14U1-053.10 đến nhà H. Khi đến trước cửa nhà H bị cáo gọi điện báo đã đến nơi bị cáo thấy H ra mở cửa. Bị cáo cùng H đi vào trong nhà, tại đây bị cáo đưa cho H 500.000 đồng gồm 02 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ tiền mện giá 100.000 đồng. H cầm tiền và đưa lại cho bị cáo một đoạn ống hút nhựa màu xanh sọc trắng được hàn kín hai đầu bên trong chứa ma túy đá. Sau khi mua được ma túy, bị cáo cất vào trong túi áo khoác rồi đi xe mô tô về nhà . Khi đi đến khu vực ngã 3, cọc 6, phường CP, thành phố D thì bị Công an kiểm tra thu giữ ma túy, tiền, điện thoại, và xe mô tô. Mục đích bị cáo mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Số tiền bị cáo mua ma túy cũng như số tiền bị thu là do bị cáo lao động mà có. Bị cáo yêu cầu được nhận lại số tiền bị thu giữ. Chiếc điện thoại Iphone là của bị cáo dùng vào việc liên lạc mua ma túy. Chiếc xe mô tô là của ông Trần Duy Ph – bố bị cáo cho bị cáo mượn. Ông Ph không biết bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma túy. Bị cáo thấy Viện kiểm sát truy tố, Toà án xét xử ngày hôm nay là đúng người đúng tội.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Duy Ph tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có lời khai: Ông là bố đẻ của bị cáo T và cùng sinh sống một nhà với T. Vào tối ngày 29/01/2019 T có bảo ông cho T mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu WAVE biển kiểm soát 14U1-053.10 đi ra ngoài có chút việc. Ông đã đồng ý. Đến khoảng hơn 21 giờ cùng ngày thì ông và gia đình biết tin T bị Công an bắt giữ cùng chiếc xe máy về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Nguồn gốc chiếc xe mô tô trên do ông mua lại từ năm 2014 tại cửa hàng xe máy HonDa ở phường CĐ, thành phố D với giá 10.000.000 đồng. Khi mua, chủ cửa hàng có đưa hết giấy tờ của chủ xe cũ cho ông nhưng do đã lâu nên ông không nhớ tên của người chủ cũ. Đến tháng 2/2017 ông đã làm thủ tục sang tên đồi chủ và đăng ký lại xe lấy tên ông và ông sử dụng cho đến khi Tùng bị Công an bắt. Việc T mượn xe đi mua ma túy ông không biết. Hiện nay ông đã được nhận lại chiếc xe trên.

Nhng người làm chứng tuy vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra:

Anh Trịnh Văn H, anh Nguyễn Thanh T khai: Vào khoảng 20 giờ 15 phút ngày 29/01/2019 khi các anh đang ở khu vực ngã 3 cọc 6 thuộc tổ 30, khu 2B, phường CP, thành phố D thì thấy Công an kiểm tra một nam thanh niên đang điều khiển xe máy WAVE màu đen biển kiểm soát 14U1-053.10 nên các anh lại gần xem thấy người thanh niên khai tên là Trần Thanh T. Công an kiểm tra thu giữ tại túi áo khoác ngoài phía trong bên trái T đang mặc 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh sọc trắng được hàn kín hai đầu; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone và số tiền 140.000 đồng Công an mở đoạn ống hút nhựa ra thì bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, T khai đó là ma túy đá. Công an đã thu giữ những đồ vật trên cùng chiếc xe máy đưa T và mời các anh về trụ sở làm việc.

Tại bản cáo trạng số: 53/CT-VKS-CP, ngày 12/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố Trần Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, đưa ra các chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: Điểm c, Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Trần Thanh T từ 12 (mười hai) tháng tù đến 15 (mười lăm) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 29/01/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Vật chứng xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo ân hận về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Trần Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, khẳng định việc truy tố, xét xử là đúng người đúng tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa như: Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Sơ đồ địa điểm bị cáo mua ma túy của H; Kết luận giám định số 238/GĐMT ngày 31/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Quảng Ninh; Biên bản kiểm tra điện thoại. Với các chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 29/01/2019, tại tổ 30, khu 2B, phường CP, thành phố D, tỉnh Quảng Ninh, Trần Thanh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,443 gam ma túy,loại Methamphetamine, với mục đích để sử dụng, thì bị Công an bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Hành vi của bị cáo không những gây mất an ninh trật tự của địa phương mà còn tiếp tay cho những kẻ buôn bán ma túy khác. Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng coi thường pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị xét xử đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Đi tượng H (Hu), theo Trần Thanh T khai là người bán ma túy cho T, quá trình điều tra xác định là Phạm Duy H trú tại tổ 4, khu ĐS, phường CS, thành phố D vắng mặt tại địa phương. Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[3] Xét nhân thân tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Bị cáo không có tiền án, tiền sự nên không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, Khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhân thân: Năm 2007, tòa án nhân dân thị xã Cẩm Phả (nay là thành phố)Cẩm Phả xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Năm 2010, Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố)Cẩm Phả xử phạt 04 tháng tù về tội “Đánh bạc” (số tiền đánh bạc 2.120.000 đồng). Đã chấp hành xong hình phạt tù về địa phương ngày 03/01/2012 nhưng không lấy đó làm bài học lại còn tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên căn cứ vào tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn để cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần tuyên truyền giáo dục pháp luật phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo có thể bị phạt tiền, xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[5] Về Vật chứng: Đối với số ma túy Methamphetamine, sau giám định hoàn lại mẫu vật trong phong bì niêm phong số 238/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, đây là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước; số tiền 140.000đ (một triệu một trăm nghìn đồng) là tiền của bị cáo do lao động mà có nên trả lại cho bị cáo;

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên, sự.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c, Khoản 1 Điều 249; điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình Tuyên bố: Bị cáo Trần Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thanh T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 29/01/2019.

Căn cứ: Điểm a, c Khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, Khoản 2, Điểm a, Khoản 3, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy Methamphetamine trong 01 phong bì niêm phong số 238/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone màu xám - Trả lại bị cáo số tiền 140.000đ (một trăm bốn mươi nghìn đồng).Tình trạng vật chứng được thi hành theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 80/BB-THA, ngày 18/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Thanh T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 62/2019/HS-ST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;