Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 62/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 25 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 148/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2019, về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 44/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 15 tháng 10 năm 2019, giữa:

-Nguyên đơn: Bà Trần Thị N, sinh năm: 1990.

Cư trú tại: ấp B, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.

-Bị đơn: Ông Huỳnh Công D, sinh năm: 1985.

Cư trú tại: ấp B, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 5 năm 2019 và trong quá trình xét xử, Bà Trần Thị N là nguyên đơn trình bày: Bà và Ông Huỳnh Công D tổ chức lễ cưới vào năm 2011, có đăng ký kết hôn vào ngày 19/5/2011, tại Ủy ban nhân dân xã Thuận Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.

Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được bảy năm thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau. Hai người chung sống với gia đình và các con nhưng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau nên từ khi gởi đơn xin ly hôn bà ra chợ Thuận Mỹ mua bán và sống riêng. Nay tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với Ông Huỳnh Công D.

Về con chung: Bà và Ông D có với nhau hai người con chung tên Huỳnh Công Gia M, sinh ngày 01/12/2011 và Huỳnh Trần Gia H, sinh ngày 05/6/2013, hiện nay bà và Ông D đang cùng trực tiếp nuôi con. Khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục giữ nuôi hai người con chung, không yêu cầu Ông D phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Ông Huỳnh Công D, theo xác nhận của Công an xã Thuận Mỹ, ngày 08/5/2019 Ông D hiện đang có mặt tại địa phương, Tòa án nhiều lần tống đạt trực tiếp các thông báo phiên hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa cho Ông D, nhưng Ông D vắng mặt không lý do, do đó cần áp dụng các Điều 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đưa vụ án ra xét xử vắng mặt Ông Huỳnh Công D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bà Trần Thị N xin ly hôn với Ông Huỳnh Công D, việc tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nên Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý, giải quyết.

[2] Bà Trần Thị N và Ông Huỳnh Công D tổ chức lễ cưới vào năm 2011, có đăng ký kết hôn ngày 19/5/2011, tại Ủy ban nhân dân xã Thuận Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Long An, nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

[3] Theo Bà Trần Thị N sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được bảy năm thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp. Hai người chung sống với gia đình và các con nhưng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau nên bà đã đi ra sống riêng. Nay tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Bà N xin được ly hôn với Ông D. Đối với Ông Huỳnh Công D hiện đang có mặt tại địa phương, Tòa án đã nhiều lần tống đạt trực tiếp các thông báo, quyết định của Tòa án để Ông D đến Tòa án giải quyết vụ án, nhưng Ông D vẫn vắng mặt không lý do, đã thể hiện ý thức không hợp tác của Ông D. Xét thấy giữa hai đương sự đã phát sinh mâu thuẫn, nhưng hai bên không có thiện chí hàn gắn lại, đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần cho Bà Trần Thị N được ly hôn với Ông Huỳnh Công D, theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Nguyên đơn khai trình hai đương sự có với nhau hai người con chung tên Huỳnh Công Gia M, sinh ngày 01/12/2011 và Huỳnh Trần Gia H, sinh ngày 05/6/2013, hiện nay Bà N và Ông D đang nuôi con. Khi ly hôn Bà N yêu cầu được tiếp tục giữ nuôi hai người con chung, không yêu cầu Ông D phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy để ổn định cuộc sống của con chung của hai đương sự và theo nguyện vọng của con chung của hai đương sự cần chấp nhận yêu cầu của Bà N, giao cho Bà N có trách nhiệm nuôi hai người con chung đến tuổi trưởng thành. Bà N không yêu cầu Ông D phải cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra. Ông D có quyền đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung các đương sự được quyền xin thay đổi tình trạng nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[6] Về án phí: Bà Trần Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, 35, 39, 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho Bà Trần Thị N được ly hôn với Ông Huỳnh Công D.

2. Về con chung: Khi ly hôn Bà Trần Thị N được giữ nuôi hai người con chung tên Huỳnh Công Gia M, sinh ngày 01/12/2011 và Huỳnh Trần Gia H, sinh ngày 05/6/2013, đến tuổi trưởng thành. Ông Huỳnh Công D không phải cấp dưỡng nuôi con; được quyền đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung các đương sự được quyền xin thay đổi tình trạng nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Bà Trần Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Cho chuyển số tiền tạm ứng án phí Bà N đã nộp là 300.000 đồng sang khoản án phí phải thi hành, theo biên lai thu số 0002117 ngày 24 tháng 6 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Toà án tống đạt hợp lệ bản án, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:62/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;