Bản án 62/2018/HNGĐ-ST ngày 31/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN - THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 62/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 8 năm 2018, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TháiNguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 62/2018/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2018/QĐXX ngày 23/7/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vi Thị Đ (tên gọi khác Vi Thị B )sinh năm 1988

HKTT: Xóm LG2, xã QS, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên

Bị đơn: Anh Lê Quang D, sinh năm 1983

HKTT: Xóm Tr, xã HTh, TPTN, tỉnh Thái Nguyên

(Chị Đ ( tức B) và anh D vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 20/12/2017 và đơn khởi kiện bổ sung ngày 31/01/2018, bản tự khai, biên bản hoà giải, nguyên đơn chị Vi Thị Đ (tên gọi khác Vi Thị B ) trình bày:

Chị Đ và anh D được tìm hiểu yêu thương nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã QS, huyện ĐH, Thái Nguyên vào ngày 06/4/2012. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống cùng bố mẹ chồng tại xã HTh, huyện ĐH (nay là TPTN), do không tìm hiểu nhiều nên sau kết hôn thì chị biết anh D là người lười lao động, hơn nữa anh D thường xuyên sử dụng bạo lực, hay rượu chè khi chị khuyên ngăn thì gia đình nhà chồng bênh con, sau đó giữa anh D có mâu thuẫn với anh rể lên có xảy ra xô xát, tháng 3/2013 thì D phải đi cải tạo đồng thời giữa chị và mẹ chồng có mâu thuân nên chị đã bế con về nhà bố mẹ đẻ chị ở xã QS, huyện ĐH sinh sống. Đến tháng 9 năm 2016, anh D được đặc xá, ra trại thì có đến đón, chị cũng mong muốn để vợ chồng đoàn tụ nên cũng bế con về nhà chồng để sinh sống. Tuy nhiên, chị chỉ ở được nhà chồng khoảng 10 ngày thì giữa chị và mẹ chồng xảy ra mâu thuẫn, mẹ chồng đuổi chị ra khỏi nhà do đó chị đã bế con về nhà mẹ đẻ sinh sống, từ đó anh D cũng không hỏi han gì đến chị và con. Vợ chồng cũng sống ly thân cho đến nay, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Dđể ổn định cuộc sống.

Tại biên bản lấy lời khai anh Lê Quang D trình bày:

Anh D và chị Đ (tức B) được tìm hiểu yêu thương nhau tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã QS. Sau khi kết hôn hai vợ chồng về ở xã HTh, huyện ĐH (nay là thành phố Thái Nguyên) sinh sống. Hai vợ chồng chung sống bình thường, không có mẫu thuẫn gì nhiều, từ năm 2013, anh phải đi cải tạo thì chị Đ không thăm nom gì anh, bỏ bê và mang con về nhà ngoại sinh sống. Năm 2015, anh có thuyết phục chị Đ về nhà anh sống nhưng được khoảng một tháng thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chị Đ bỏ đi, từ đó đến nay vợ chồng sống ly thân, tuy nhiên chị Đ có đơn xin ly hôn anh không đồng ý.

Về con chung: Hai bên đương sự xác định trong qúa trình chung sống vợ chồng có 01 con chung là Lê Quang V, sinh ngày 04/01/2013 sinh sống cùng chị Vi Thị Đ (tức Bé) tại xã QS, huyện ĐH.

Quan điểm chị Đ(tức Bé) do cháu V ở với chị từ nhỏ đến nay, khi ly hôn chị đề nghị được nuôi con chung, chị không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Chị xác định từ khi sinh con cho đến nay anh D không hỏi thăm hay chu cấp gì con, bản thân chị hiện đang làm công nhân tại công ty Samsung có thu nhập ổn định trung bình khoảng 7 triệu/tháng nên có đủ điều kiện nuôi con.

Anh D nhất trí để chị Đ nuôi con, đề nghị được quyền thăm con.

Về tài sản chung, công nợ: Các đương sự thống nhất trong quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không nợ ai và cũng không cho ai vay nợ gì.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát thành phố Thái Nguyên phát biểu ý kiến: Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử, thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng các quy định Bộ luật tố tụng dân sự, chấp hành đúng thời hạn chuẩn bị xét xử. Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: áp dụng Điều 28, 35, 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, 56, 81,82,83,84 Luật hôn nhân gia đình; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016. Về quan hệ hôn nhân chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Vi Thị Đ, cho chị Đ (B) được ly hôn với anh Lê Quang D. Về con chung giao cháu Lê Quang V, sinh ngày 04/01/2013 cho chị Đ nuôi dưỡng, chăm sóc, về cấp dưỡng nuôi con chị Đ không đề nghị nên không xem xét. Về tài sản chung, công nợ chung không giải quyết do không yêu cầu. Về án phí chị Đ (Bé) phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân gia đình về việc yêu cầu ly hôn giữa nguyên đơn là chị Vi Thị Đ (tức B), sinh năm 1988, HKTT: xóm LG2, xã QS, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên và bị đơn anh Lê Quang D, sinh năm 1983, HKTT: xóm Tr, xã HTh, TPTN, tỉnh Thái Nguyên. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã giải quyết theo đúng quy định pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án anh D mặc dù đã được tống đạt hợp lệ giấy triệu tập nhiều lần nhưng không có mặt để tham gia tố tụng do đó đến ngày 24/04/2018 Tòa án mới tiến hành lấy lời khai của anh D. Trong qúa trình giải quyết vụ án Tòa án đã quyết định mở 03 phiên hòa giải, nhưng đều không tiến hành hòa giải được vì bị đơn không có mặt, mặc dù anh D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, niêm yết công khai tại địa phương các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh D vẫn cố tình vắng mặt, không hợp tác với Tòa án. Căn cứ vào Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa ngày 31/8/2018 mặc dù đã được Tòa án đã tống đạt, niêm yết giấy triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn anh D vẫn cố tình vắng mặt lần thứ 2, đồng thời chị Đ (tức B) có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ điểm a,b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Đ (tức B) và anh D.

[2].Về nội dung vụ án:

[2.1] Quan hệ hôn nhân: Chị Vi Thị Đ (Vi Thị B ) và anh Lê Quang D được tìm hiểu yêu thương nhau tự nguyện, không bị ai ép buộc, kết hôn đủ điều kiện và có đăng ký kết hôn ngày 06/04/2012 tại UBND xã QS, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với gia đình anh D được một thời gian đến tháng 3/2013 thì anh D đi trại cải tạo, chị Đ đã bế con về nhà bố mẹ đẻ chị ở xã QS, huyện ĐH sinh sống, sau đó tháng 9 năm 2015 mặc dù anh D cũng đã đón chị Đ và con về cùng sinh sống tuy nhiên chỉ ở với nhau một thời gian ngắn xảy ra mâu thuẫn nên chị Đ về nhà bố mẹ đẻ ở xã QS, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên sinh sống cho đến nay vợ chồng sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai, anh D thừa nhận về việc vợ chồng sống ly thân nhưng không nhất trí ly hôn. Lời khai của chị Đ (tức B) và anh D cũng phù hợp với lời khai cùa bà Hoàng Thị L, mẹ đẻ của anh D tại buổi làm việc ngày 24/5/2018 bà L xác định: Anh D hiện đi làm xây ở trong TPTN sáng đi tối về, vợ chồng D sống ly thân, vợ chồng có liên lạc thì thường xuyên cãi nhau, theo như bà biết thì anh D giờ cũng không còn tình cảm với chị Đ (B).

Từ những lời khai trên HĐXX có đủ căn cứ để xác định tình trạng hôn nhân giữa chị Đ (tức B) và anh D đã ở mức mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, việc duy trì quan hệ hôn nhân cũng không mang lại hạnh phúc cho cả 2 bên nên cần chấp yêu cầu xin ly hôn của chị Đ(tức B), cho chị Đ (tức B) được ly hôn với anh D như vậy là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Trong qúa trình chung sống giữa chị Đ (tức B) và anh D có 01 con chung là Lê Quang V, sinh ngày 04/01/2013. Chị Đ (tức B) có nguyện vọng được nuôi con, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con, anh D chỉ có nguyện vọng được thăm nom con. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi sinh ra đến nay cháu V đều ở với chị Đ (tức B), hiện chị có công việc và thu nhập ổn định nên xét thấy cần thiết giao cháu V cho chị Đ (tức B) trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cho tới khi cháu V thành niên (đủ 18 tuổi) là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 và phù hợp với thực tế.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Đ (B) không yêu cầu, nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh D cho đến khi chị Đ (B) có yêu cầu.

Anh D được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung, công nợ chung: Do các bên xác định không có, không đề nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về án phí: Chị Đ (tức B) phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271; điểm a,b khoản 2 Điều 227; Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015;Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu xin ly hôn của chị Vi Thị Đ (tức Vi Thị B )

1.Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Vi Thị Đ (Vi Thị B ) được ly hôn với anh Lê Quang D.

2. Về con chung: Giao cho chị Đ (B) trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục con chung là Lê Quang V, sinh ngày 04/01/2013 đến khi con trưởng thành (đủ 18 tuổi) hoặc đến khi có thỏa thuận khác.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Đ (B) không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con, nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh D cho đến khi chị Đ (Bé) có yêu cầu.

Anh D được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

Đối với quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án và thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 26 Luật thi hành án dân sự; Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về tài sản chung và công nợ chung: chị Đ (tức B) và anh D xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Vi Thị Đ (Vi Thị B ) phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005951 ngày 31/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

Báo cho chị Đ (tức B), anh D biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 62/2018/HNGĐ-ST ngày 31/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:62/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;