Bản án 62/2017/HNGĐ-ST ngày 27/11/2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 62/2017/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2017 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 27 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 221/2017/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2017/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2017 và quyết định hoãn phiên tòa số 53 ngày 08/11/2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Hồng D, sinh năm 1990. (có mặt) Địa chỉ: ấp V, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Ông Trương Văn H, sinh năm 1973. (vắng mặt) Địa chỉ: ấp V, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

Con chung trên 07 tuổi: Cháu Trương Thị Ngọc M, sinh ngày 01/6/2008. (có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn ngày 15/8/2017 và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay nguyên đơn bà Trần Thị Hồng D trình bày: Vào năm 2003, bà D và ông H kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn M vào ngày 30/8/2014, sau khi cưới hai người chung sống hạnh phúc được 12 năm đến khoảng 01 năm nay thường phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không thể hàn gắn được nữa. Bà thấy hôn nhân giữa hai người không đem đến cho bà hạnh phúc nên yêu cầu Toà án xem xét cho bà được ly hôn với ông Trương Văn H.

- Về con chung: Trong thời gian chung sống ông, bà có 03 con chung tên Trương Thị Ngọc M, sinh ngày 01/6/2008, Trương Thái T, sinh ngày 24/8/2015 và Trương Ngọc M, sinh ngày 05/7/2016, hiện đang sống với bà D. Khi ly hôn, bà yêu cầu được nuôi dưỡng các con chung đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn ông Trương Văn H: Toà án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và quyết định đưa vụ án ra xét xử theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự nhưng ông H từ chối nhận văn bản và cũng không có ý kiến gì về việc bà D xin ly hôn với ông .

- Đối với cháuTrương Thị Ngọc M: Cháu có nguyện vọng khi cha mẹ ly hôn thìcháu được sống cùng mẹ là bà D.

Tại phiên tòa hôm nay kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý, xét xử vụ án thì thẩm phán, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; phía bị đơn chưa thực hiện và chấp hành đúng quy định pháp luật do vắng mặt không có lí do tại các phiênhọp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, phiên hòa giải và phiên tòa xét xử sơ thẩm; Ông Trương Văn H đã được cấp tống đạt các văn bản tố tụng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự, ông H đã được triệu tập xét xử đến lần thứ hai nhưng ông vẫn vắng mặt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 tiến hành xét xử vắng mặt ông H.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà D được ly hôn với ông H. Về con chung: Giao cho bà D được quyền tiếp tục nuôi dưỡng các con chung tên Trương Thị Ngọc M, sinh ngày 01/6/2008, Trương Thái T, sinh ngày 24/8/2015 và Trương Ngọc M, sinh ngày 05/7/2016 đến tuổi trưởng thành, ông H không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có yêu cầu, nên không đặt ra xem xét;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Ông Trương Văn H đã được cấp tống đạt các văn bản tố tụng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự, ông H đã được triệu tập xét xử đến lần thứ hai nhưng ông vẫn vắng mặt, áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt ông H.

[2] Về nội dung: Việc tranh chấp giữa bà D và ông H là loại kiện hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”,bà D và ông H kết hôn vào năm2003 và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Mỹ Xuyên vào ngày 30/8/2014. Xétthấy, bà D và ông H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và thực hiện việc đăng ký kết hônvới cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân của bà D và ông H là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Về tình cảm lúc ban đầu hai người sống chung hạnh phúc, thương yêu, giúp đỡ, chăm sóc và chia sẽ lẫn nhau, nhưng vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn gia đình, nguyên nhân theo bà D là do tính tình không hợp, ông H không lo cho cuộc sống gia đình nên bà thấy tình cảm gia đình hiện nay không còn, hôn nhân không thể tồn tại được nữa nên bà xin ly hôn với ông H. Khi Toà án thụ lý đơn khởi kiện về việc ly hôn của bà D, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho ông H, ông H đã biết yêu cầu của bà D nhưng ông không có ý kiến gì đối với yêu cầu ly hôn của bà, cả 02 lần triệu tập hoà giải ông không chấp hành theo giấy triệu tập và qua xác minh tại chính quyền địa phương nơi vợ chồng ông, bà sinh sống để tìm hiểu về nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng bà D và ông H,chính quyền địa phương cho biết khi chung sống ông, bà thường phát sinh mâu thuẫn, ông H không chăm lo cho gia đình dẫn đến việc bà D gởi đơn xin ly hôn. Từ nhận định trên Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng giữa bà D và ông H thật sự không còn, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.Tại phiên tòa hôm nay bà D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với ông H, Hội đồng xét xử nghĩ nên áp dụng Điều 51;Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn khởi kiện về việc ly hôn của bà D và giải quyết cho bà D được ly hôn với ông H là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Về con chung: Trong thời gian chung sống bà D và ông H có ba con chung tên Trương Thị Ngọc M, Trương Thái T và Trương Ngọc M, các cháu chưa thành niên và hiện các cháu đang sống với bà D. Tại phiên tòa, bà D yêu cầu khi vợ chồng ly hôn bà xin được trực tiếp nuôi ba người con chung đến tuổi trưởng thành. Xét thấy, các cháu hiện nay đang sống với bà D, bà D có nguyện vọng tiếp tục nuôi dưỡng các cháu đến tuổi trưởng thành, để tránh cuộc sống hiện tại của các cháu bị xáo trộn, không làm ảnh hưởng đến tâm, sinh lý của các cháu và ổn định việc học của cháu M, ngoài ra cháu M có nguyện vọng được tiếp tục sống cùng mẹ nên cần giao cho bà D được quyền tiếp tục nuôi dưỡng các cháuđến tuổi trưởng thành, xét yêu cầu được nuôi con của bà D là phù hợp quy định của pháp luật và cũng phù hợp nguyện vọng của cháu M. Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận yêu cầu nuôi con của bà D, giao cho bà D được quyền trực tiếp nuôi dưỡng các con chung đến tuổi trưởng thành là hợp lý và đúng pháp luật. Ông H được quyền thăm nom con chung không ai được quyền cản trở.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà D không yêu cầu ông Hùng cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét;

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử khôngđặt ra xem xét.

[6] Về án phí sơ thẩm áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu ,miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà D là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa ,đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên nêu về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến thời điểm xét xử vụ án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, về phía bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà D được ly hôn với ông H. Về con chung: Giao cho bà D được quyền tiếp tục nuôi dưỡng các con chung tên Trương Thị Ngọc M, sinh ngày 01/6/2008, Trương Thái T, sinh ngày 24/8/2015 và Trương Ngọc M, sinh ngày 05/7/2016 đến tuổi trưởng thành, ông H không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có yêu cầu, nên không đặt ra xem xét. Các đề nghị nêu trên của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; Khoản 1 Điều 35;điểm a khoản 1 Điều 39;Khoản 4 điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273; Điều 278 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2017 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Hồng D được ly hôn với ông Trương VănH.

- Về con chung: Giao cho bà Trần Thị Hồng D được quyền tiếp tục nuôi dưỡngcác con chung tên Trương Thị Ngọc M, sinh ngày 01/6/2008, Trương Thái T, sinh ngày 24/8/2015 và Trương Ngọc M, sinh ngày 05/7/2016 đến tuổi trưởng thành, ông H không phải cấp dưỡng nuôi con. Ông H được quyền thăm nom con chung không ai được quyền cản trở.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử khôngđặt ra xem xét;

- Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Trần Thị Hồng D phải chịu 300.000 đồng, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008701 ngày 15/8/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên, bà D đã nộp xong án phí.

Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai nơi cư trú, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

348
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 62/2017/HNGĐ-ST ngày 27/11/2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:62/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;