TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 620/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA CHỊ G VÀ ANH N
Ngày 08 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 529/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị Hương G, sinh năm 1976; Đăng ký hộ khẩu thường trú: số nhà 3/190 Hàn Thuyên, phường V, thành phố V, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: số nhà 36 đường Phạm Trung Thứ, khu đô thị M, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định. Có mặt
Bị đơn: Anh Nguyễn Đình N, sinh năm 1972; Đăng ký hộ khẩu thường trú:
số nhà 3/190 Hàn Thuyên, phường V, thành phố N, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: số 57M ô 18 phường H, thành phố N, tỉnh Nam Định. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
1.Tại đơn khởi kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình đề ngày 24-7-2020, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn chị Đoàn Thị Hương G trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Đình N kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn vào ngày 15-01-1999 tại UBND phường H, thành phố Nam Định. Sau kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 7 năm thì phát sinh muân thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về lối sống, sinh hoạt. Anh N không tu chí làm ăn, không chăm lo cuộc sống gia đình và vợ con và thường xuyên uống rượu nên vợ chồng thường xảy ra nhiều xung đột, cãi vã. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay và không còn quan tâm chăm sóc đến nhau. Nay chị G xác định tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng chị ly hôn.
Về con chung: Chị G trình bày vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Thị Thanh H – sinh ngày 13-01-2000 (giới tính: nữ) và Nguyễn Minh Q, sinh ngày 17- 6-2005 ( tính: nam). Hiện tại cháu Nguyễn Thị Thanh H đã trưởng thành tự lập còn cháu Quân đang ở cùng với chị. Về việc nuôi con: Chị G có nguyện vọng được trực tiếp, nuôi dưỡng và chăm sóc con Nguyễn Minh Q. Về cấp dưỡng nuôi con: vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị G xác định vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2.Tại bản tự khai đề ngày 11-11-2020, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Đình N trình bày:
Về hôn nhân: Anh N thừa nhận về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn như chị Đoàn Thị Hương G trình bày là đúng. Còn về mâu thuẫn vợ chồng anh N trình bày: Sau kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh muân thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về lối sống, sinh hoạt, không có tiếng nói chung trong cuộc sống. Anh N thừa nhận do bản thân có uống rượu chị G có nhắc nhở nên vợ chồng đã xảy ra xung đột, cãi vã. Từ tháng 9 năm 2017 chị G và con trai đã chuyển về đường Phạm Trung Thứ sinh sống và vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay và vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc đến nhau. Nay chị G xin ly hôn, anh N xác định mâu thuẫn vợ chồng không có gì trầm trọng nên không đồng ý ly hôn với chị G.
Về con chung: Anh N cũng xác nhận vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Thị Thanh H – sinh ngày 13-01-2000 (giới tính: nữ) và Nguyễn Minh Q, sinh ngày 17-6-2005 (giới tính: nam). Hiện tại cháu Nguyễn Thị Thanh Hđã trưởng thành tự lập còn cháu Quân đang ở cùng với chị G. Về việc nuôi con: Anh N đồng ý nếu vợ chồng ly hôn chị G sẽ trực tiếp, nuôi dưỡng và chăm sóc con Nguyễn Minh Q. Về cấp dưỡng nuôi con: vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung và vay nợ chung: anh N xác nhận vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3.Tại biên bản thu thập tài liệu chứng cứ ngày 13-11-2020 tại Ủy ban nhân dân phường H xác nhận quá trình chung sống vợ chồng chị G và anh N đã xảy ra mâu thuẫn, hiện tại vợ chồng đã sống ly thân. Về con chung: Vợ chồng chị G, anh N có hai con chung là Nguyễn Thị Thanh H – sinh ngày 13-01-2000 (giới tính: nữ) và Nguyễn Minh Q, sinh ngày 17-6-2005, giới tính Nam. Hiện tại cháu Nguyễn Thị Thanh H đã trưởng thành tự lập còn cháu Q đang ở cùng với chị G.
4.Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá: Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các qui định của pháp luật. Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa chị G và anh N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử xử cho ly hôn giữa chị G và anh N. Về con chung: chị G và anh N thỏa thuận chị G trực tiếp nuôi con Nguyễn Minh Qkhi vợ chồng ly hôn, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận. Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị G và anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hôn nhân: Chị Đoàn Thị Hương G và anh Nguyễn Đình N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố Nam Định nên hôn nhân giữa chị G và anh N là hôn nhân hợp pháp.
[2] Về mâu thuẫn vợ chồng: Sau kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 7 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về lối sống, sinh hoạt. Anh N không tu chí làm ăn, không chăm lo cuộc sống gia đình, vợ con và thường xuyên uống rượu nên vợ chồng xảy ra nhiều xung đột, cãi vã. Vợ chồng ly thân từ năm 2017 cho đến nay và không còn quan tâm chăm sóc đến nhau. Chị G xin ly hôn, anh N không đồng ý nhưng anh N cũng không đưa ra các biện pháp có hiệu quả để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng. Do đó, chứng tỏ cuộc sống vợ chồng đã thực sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử xử cho ly hôn giữa chị Đoàn Thị Hương G và anh Nguyễn Đình N theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3] Về tranh chấp nuôi con: Chị G và anh N thống nhất: Chị G trực tiếp nuôi con Nguyễn Minh Q, sinh ngày 17-6-2005, giới tính Nam. Về cấp dưỡng nuôi con:
vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét sự thỏa thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[4] Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị G và anh N xác nhận tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: chị G là nguyên đơn nên phải nộp toàn bộ án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ vào Điểm a Khoản 5, Điểm a, b Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Đoàn Thị Hương G và anh Nguyễn Đình N.
2. Về nuôi con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau: Chị Đoàn Thị Hương G trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con Nguyễn Minh Q, sinh ngày 17-6-2005 (giới tính: nam). Về cấp dưỡng nuôi con: Vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.
Người không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đoàn Thị Hương G phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Khấu trừ khoản tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị Đoàn Thị Hương G đã nộp tại biên lai số 0003285 ngày 21-10- 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Đoàn Thị Hương G, anh Nguyễn Đình N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 620/2020/HNGĐ-ST ngày 08/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị G và anh N
Số hiệu: | 620/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về