TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 617/2023/DS-PT NGÀY 11/09/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, HUỶ VĂN BẢN PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ, HUỶ GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 11 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 362/2023/TLPT-DS ngày 23 tháng 6 năm 2023, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, huỷ văn bản phân chia di sản thừa kế, huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2023/DS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2182/2023/QĐPT-DS ngày 25 tháng 8 năm 2023; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Ngô Thị N, sinh năm 1960 (vắng mặt); Địa chỉ: Số Tổ 4, Ấp 6, xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của bà N: Anh Phan Thành K, sinh năm 1988 (có mặt);
Địa chỉ: Ấp , xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
- Bị đơn: Bà Lâm Thị L, sinh năm 1955 (có mặt);
Địa chỉ: Ấp X C, xã T L, huyện Huyện C Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của bà L: Anh Phan Bá Tn, sinh năm 1975 (có mặt);
Địa chỉ: Khu 8, thị trấn Huyện C Đ, huyện Huyện C Đ, tỉnh Long An.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ, tỉnh Long An;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đào Hữu T - Chức vụ: Quyền Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ (xin vắng mặt).
2. Văn phòng công chứng Lê Hồng B T;
Địa chỉ: TTTM Khg G, Khu 3, thị trấn Huyện C Đ, huyện Huyện C Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Lê Hồng Bảo T - Chức vụ: Trưởng Văn phòng (vắng mặt).
3. Anh Phan Thành K, sinh năm 1986 (vắng mặt);
4. Anh Phan Thành K, sinh năm 1988 (có mặt);
5. Anh Phan Thành B, sinh năm 1990 (vắng mặt); Cùng địa chỉ: Ấp 6, xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
6. Chị Phan Thị Hồng H, sinh năm 1981 (vắng mặt);
Địa chỉ: , Phường 14, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Chị Phan Thị Kim T, sinh năm 1984 (vắng mặt);
Địa chỉ: phường Phước Bình, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của anh K, anh B, chị H, chị T: Anh Phan Thành K, sinh năm 1988 (có mặt);
Địa chỉ: Ấp 6, xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
8. Anh Võ Văn S, sinh năm 1974 (vắng mặt);
9. Anh Võ Khắc B, sinh năm 1979 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp X Ch, xã T L, huyện Huyện C Đ, tỉnh Long An.
10. Anh Võ Văn H, sinh năm 1976 (vắng mặt);
Địa chỉ: ổ 1, khu phố 11, phường TCH, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: Bà Ngô Thị N là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 22 tháng 10 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Ngô Thị N do anh Phan Thành K đại diện trình bày:
Thửa đất số 186, loại đất NTS, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An có nguồn gốc là của ông nội chồng bà Ngô Thị N là ông Phan Văn K khai hoang sử dụng rồi cho lại cha chồng bà N là ông Phan Văn T. Ông T trước khi chết có cho lại đất cho con là ông Phan Thành B. Ông B được Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 599571 ngày 12/6/1997 trong đó có thửa đất số 186. Đến năm 2018, ông B chết nên bà N là vợ cùng các con là Phan Thành K, Phan Thành K, Phan Thành B, Phan Thị Hồng H, Phan Kim T lập Văn bản phân chia tài sản thừa kế do Văn phòng công chứng H (nay là Văn phòng công chứng Lê Hồng Bảo T) công chứng ngày 15/01/2019, số công chứng 177, quyển số 01 TP/CC- SCC/HĐGD để giao quyền cho bà N được toàn quyền định đoạt đối với thửa đất số 186 nên bà N được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 186.
Trước đây, thửa 186 là cái ao sen, ông bà của Anh K là ông Kỳ sử dụng để trữ nước ngọt để sử dụng cho gia đình và những hộ xung quanh. Khoảng năm 1980 - 1983 có đê nên phần ao đã bồi lấp dần. Đến năm 1990 - 1995, vợ ông T là bà Phạm Thị Đ có cho vợ chồng bà H, ông C là cha mẹ chồng bà L mượn để cấy lúa xung quanh cái ao. Đến khi cha mẹ chồng bà L chết thì bà L cho rằng đất này là của gia đình bà L nên san lấp bằng phẳng để trồng lúa đến nay không chịu trả. Phía ông B và bà N từ khi cấp giấy thì không C sử dụng đất. Khi khởi kiện thì bà N khởi kiện yêu cầu trả lại thửa đất 186, diện tích 657m2 nhưng khi đo đạc diện tích thực tế là 563,7m2 thuộc khu A nên bà N thay đổi yêu cầu khởi kiện buộc bà L trả lại diện tích 563,7m2 đất thuộc khu A theo Mảnh trích đo địa chính số 39PT-2021 ngày 18/6/2021 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú đo vẽ được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Huyện C Đ duyệt ngày 23/6/2021. Đến năm 2020, Anh K là con bà N đã xịt thuốc trên thửa 186 nên hiện nay đất để trống.
Đối với yêu cầu phản tố của bà L yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 599571 do Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp cho ông Phan Thành B đối với thửa đất số 186, hủy một phần Văn bản phân chia tài sản thừa kế do Văn phòng công chứng H công chứng đối với thửa đất số 186, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CQ 871431 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho bà Ngô Thị N đối với thửa đất số 186, công nhận cho bà Lâm Thị L được quyền sử dụng thửa đất số 186 thì bà N không đồng ý.
Bị đơn bà Lâm Thị L trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và có đơn phản tố đề ngày 22 tháng 4 năm 2022 như sau:
Bà L không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà N. Cha mẹ chồng của bà L với vợ chồng ông B, bà N có quan hệ họ hàng chung ông bà nên được ông bà chia đất sử dụng chung giáp ranh với nhau. Thửa đất số 186 có nguồn gốc của mẹ chồng bà là bà Phan Thị H sử dụng đến năm 1972 thì bà lấy chồng là ông Võ Văn Hồng cùng sử dụng đến khi ông H chết năm 1980 thì bà và các con đã là Anh S, anh H, anh B sử dụng đến khi các con có gia đình thì bà sử dụng đến nay. Trước đây, khi cha mẹ chồng bà L sử dụng đất thì phần đất này là đất trũng, lên liếp cấy lúa còn lỗ trũng thì chăn nuôi vịt, sau này đất bồi đắp bằng phẳng trồng lúa. Trong quá trình sử dụng đất thì ông B có yêu cầu bà xác định ranh giới đất nên bà và ông B, bà N cùng con trai ông B là anh Phan Thành K đã xác định được ranh giới hai bên, lúc này ông B có cắm cột mốc ranh giới bằng trụ bê tông dọc theo đất ông B. Do nhà bà L ở xã T L nên không biết là ông B đã kê khai và được Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất 186 mà bà L đang sử dụng. Sau khi ông B chết, bà N và các con bà N đã làm văn bản phân chia tài sản thừa kế để lại đất cho bà N và bà N được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Lúc này Anh K là con bà N yêu cầu bà sang nhà để xác định ranh giới đất và Anh K đã chỉ ranh đất của bà N sang thửa 186 của bà L nên phát sinh tranh chấp theo đo đạc thực tế là 563,7m2 thuộc khu A. Ông B, bà N trước và sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn chưa sử dụng đất ngày nào. Do đó, bà L phản tố như sau:
- Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 599571 do Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp cho ông Phan Thành B ngày 12/6/1997 đối với thửa đất số 186, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
- Hủy một phần Văn bản phân chia tài sản thừa kế do Văn phòng công chứng H (nay là Văn phòng công chứng Lê Hồng Bảo T) công chứng ngày 15/01/2019, số công chứng 177, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD đối với thửa đất số 186, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CQ 871431 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho bà Ngô Thị N ngày 11/02/2019 đối với thửa đất số 186, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
- Công nhận cho bà Lâm Thị L được quyền sử dụng thửa đất số 186 theo đo đạc thực tế, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ trình bày ý kiến được thể hiện tại Văn bản số 2308/UBND-TD ngày 17/4/2023 như sau:
Theo Văn bản số 1513/CN.VPĐKĐĐ-KTLT ngày 31/3/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Huyện C Đ thì hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phan Thành B đối với thửa đất 186 đã bị thất lạc. Về nguồn gốc, diễn biến quá trình sử dụng đất đối với thửa đất 186 thì thể hiện tại Văn bản số 359/UBND ngày 28/3/2023 của Ủy ban nhân dân xã Phước Tuy. Đối với yêu cầu của bà Lâm Thị L về hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất 186 mà Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp cho ông Phan Thành B thì Ủy ban đề nghị Tòa án xét xử theo quy định. Ủy ban đề nghị được vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng Lê Hồng Bảo T có lời trình bày:
Văn bản phân chia tài sản thừa kế do Văn phòng công chứng H (nay là Văn phòng công chứng Lê Hồng Bảo T) công chứng ngày 15/01/2019, số công chứng 177, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD đối với thửa đất số 186, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An được thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật. Trong thời gian niêm yết công khai tại địa phương không C ai tranh chấp hay khiếu nại nên Văn phòng công chứng không đồng ý yêu cầu hủy văn bản phân chia tài sản thừa kế của bà L. Văn phòng công chứng Lê Hồng Bảo T đề nghị được vắng mặt đến khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Phan Thành K, anh Phan Thành K, anh Phan Thành B, chị Phan Thị Hồng H, chị Phan Thị Kim T do anh Phan Thành K đại diện trình bày:
Anh K, anh K, anh B, chị H, chị T là con của ông B, bà N. Các anh chị đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà N, không đồng ý yêu cầu phản tố của bà L.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Võ Văn S, anh Võ Khắc B, anh Võ Văn H có lời trình bày:
Anh S, anh B, anh H là con của bà L, ông H. Thửa đất 186 có nguồn gốc của ông bà nội của Anh S, anh B, anh H là bà Phan Thị H quản lý sử dụng từ năm 1965 rồi để lại cho cha mẹ là bà L, ông H sử dụng từ năm 1972 đến năm 1980 thì ông H chết rồi bà L sử dụng. Năm 2005, bà H làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất các thửa 184, 185, 187, 223 cho Anh S, trong đó có phần diện tích của thửa 186 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H. Thực tế thì đất này bà L vẫn quản lý sử dụng. Việc ông B đi kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 186 là không đúng đối tượng. Nay Anh S, anh B, anh H không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà N, đồng ý yêu cầu phản tố của bà L. Anh S, anh B, anh H đề nghị được vắng mặt trong quá trình giải quyết của Tòa án các cấp.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2023/DS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên xử:
Căn cứ các Điều 26, 34, 37, 39, 147, 273 và 483 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 2, 73 Luật Đất đai năm 1993; Điều 105 Luật Đất đai năm 2003; Điều 99 Luật Đất đai năm 2013; Các Điều 12, 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị N về việc yêu cầu bà Lâm Thị L trả lại thửa đất số 186 phần khu A diện tích 563,7m2, loại đất NTS, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Lâm Thị L về việc yêu cầu:
2.1. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 599571 do Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp cho ông Phan Thành B ngày 12/6/1997 đối với thửa đất số 186 phần khu B diện tích 31,5m2, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
2.2. Hủy một phần Văn bản phân chia tài sản thừa kế do Văn phòng công chứng H (nay là Văn phòng công chứng Lê Hồng Bảo T) công chứng ngày 15/01/2019, số công chứng 177, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD đối với thửa đất số 186 phần khu B diện tích 31,5m2, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
2.3. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CQ 871431 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho bà Ngô Thị N ngày 11/02/2019 đối với thửa đất số 186, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
2.4. Công nhận cho bà Lâm Thị L được quyền sử dụng đối với thửa đất số 186 phần khu B diện tích 31,5m2, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Lâm Thị L về việc yêu cầu:
3.1. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 599571 do Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp cho ông Phan Thành B ngày 12/6/1997 đối với thửa đất số 186 phần khu A diện tích 563,7m2, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
3.2. Hủy một phần Văn bản phân chia tài sản thừa kế do Văn phòng công chứng H (nay là Văn phòng công chứng Lê Hồng Bảo T) công chứng ngày 15/01/2019, số công chứng 177, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD đối với thửa đất số 186 phần khu A diện tích 563,7m2, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
3.3 Công nhận cho bà Lâm Thị L được quyền sử dụng thửa đất số 186 phần khu A diện tích 563,7m2, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
Thửa đất số 186 gồm khu A diện tích 563,7m2 và khu B diện tích 31,5m2 được thể hiện trên Mảnh trích đo địa chính số 39PT-2021 ngày 18/6/2021 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú đo vẽ được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Huyện C Đ duyệt ngày 23/6/2021.
Người được thi hành án và người phải thi hành án có nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để lập thủ tục kê khai, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp).
Trường hợp bên thi hành án không giao nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bên được thi hành án được quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh, thu hồi, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp).
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về phần các chi phí tố tụng, về án phí, các quy định về thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/5/2023 nguyên đơn bà Ngô Thị N làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu chấp nhận khởi kiện của bà, sửa bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, trong phần tranh luận các đương sự trình bày như sau:
- Anh K đại diện bà N trình bày: Vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và cho rằng Thửa đất 186 do vợ ông T là bà Đ cho vợ chồng bà H, ông C là cha mẹ chồng bà L mượn từ năm 1980 sử dụng chứ không phải cho luôn, khi cho mượn chỉ nói miệng chứ không C chứng cứ chứng minh. Bà H, ông C sử dụng rồi để lại bà L là con dâu sử dụng tới năm 2020 nên bà N khởi kiện đòi lại. Khoảng năm 2000-2003, ông B cho bà L cắm cọc đỡ để cho bà L sử dụng đất chứ không C việc cắm để xác định ranh giới. Hơn nữa, năm 1992 thửa đất 186 đã được Nhà nước cấp giấy trắng cho ông B đến năm 1997 thì Nhà nước cấp lại giấy đỏ cho ông B, đất vẫn ghi nguồn gốc đất là do ông bà để lại.
- Anh Thiên đại diện bà L trình bày: Nguồn gốc đất do mẹ chồng bà L sử dụng từ năm 1962 đến năm 1972 cho lại con là ông H sử dụng. Đất không phải là ao sen vì ruộng nước mặn nên sen không sống được. Bà L sử dụng đất có những nhân chứng đã xác định. Do ruộng sạt lở nên bà L mới thỏa thuận với ông B cắm cọc để cho dễ làm chứ thực chất toàn bộ thửa 186 gồm khu A, B là của bà L. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về việc chấp hành pháp luật: Xét thấy, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, các thành viên Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ giai đoạn thụ lý đến giai đoạn xét xử phúc thẩm.
Về yêu cầu kháng cáo của đương sự: Bản án sơ thẩm đã căn cứ vào các chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án, xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị N về việc yêu cầu bà Lâm Thị L trả lại thửa đất số 186 phần khu A diện tích 563,7m2, loại đất NTS, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An. Và chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Lâm Thị L là có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Ngô Thị N, giữ y bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: Xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án gồm tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy văn bản phân chia di sản thừa kế, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Căn cứ các Điều 26, 37, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Long An là có căn cứ.
Nguyên đơn bà Ngô Thị N kháng cáo trong thời hạn luật định, nên vụ án được xem xét theo trình tự phúc thẩm, theo Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn:
[2.1] Theo Mảnh trích đo địa chính số 39PT-2021 ngày 12/6/2021 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú đo vẽ được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Huyện C Đ duyệt ngày 23/6/2021 thì thửa đất 186 đo đạc diện tích thực tế gồm khu A 563,7m2 do bà L quản lý sử dụng và khu B 31,5m2 do bà N quản lý sử dụng, thuộc tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An. Bà N cho rằng thửa 186 có nguồn gốc là của ông nội chồng bà N là ông Phan Văn K khai hoang tạo thành cái ao sen để trữ nước ngọt sử dụng và cho các hộ dân xung quanh lấy nước sử dụng. Sau đó, ông Kỳ cho lại ông Phan Văn T là cha chồng bà Ngô Thị N sử dụng. Sau đó, vợ ông T là bà Đ cho vợ chồng bà H, ông C là cha mẹ chồng bà L mượn từ năm 1980 sử dụng. Lúc này có đê nên phần ao đã bồi lấp dần. Khi bà H, ông C chết thì bà L sử dụng thửa 186 đến nay không trả lại cho ông B do ông B đã được cha là ông T cho thửa đất 186 nên ông B mới được Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 599571 ngày 12/6/1997. Đến năm 2018, ông B chết nên bà N là vợ cùng các con là anh K, Anh K, anh B, chị H, chị T lập Văn bản phân chia tài sản thừa kế do Văn phòng công chứng H công chứng để giao quyền cho bà N được toàn quyền định đoạt đối với thửa đất số 186. Cho nên, bà N được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, bà N yêu cầu bà L trả lại thửa 186 khu A diện tích 563,7m2 cho bà N.
[2.2] Bị đơn bà L cho rằng thửa đất số 186 có nguồn gốc của mẹ chồng bà là bà Phan Thị H sử dụng từ năm 1962 đến năm 1972 thì bà lấy chồng là ông Võ Văn Hồng cùng sử dụng đến khi ông H chết năm 1980 thì bà và các con là Anh S, anh H, anh B sử dụng đến khi các con có gia đình thì bà sử dụng đến nay. Trước đây, khi cha mẹ chồng bà L sử dụng đất thì phần đất này là đất trũng, lên liếp cấy lúa còn lỗ trũng thì chăn nuôi vịt, sau này đất bồi đắp bằng phẳng trồng lúa chứ không phải cái ao sen như nguyên đơn trình bày. Bà L với ông B cũng đã xác định được ranh giới đất của thửa 186. Tuy nhiên, do nhà bà L ở xã T L nên không biết là ông B đã kê khai thửa đất 186 và được Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà bà L đang sử dụng chứ thực tế ông Bá, bà N trước và sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn chưa sử dụng đất ngày nào. Sau khi ông B chết, bà N và các con bà N đã làm văn bản phân chia tài sản thừa kế để lại đất cho bà N và bà N được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi phát sinh tranh chấp.
[3] Về hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
[3.1] Tại Văn bản số 1797/CN.VPĐKĐĐ-KTLT ngày 30/3/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Huyện C Đ và Văn bản số 2308/UBND-TD ngày 17/4/2023 của Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ phúc đáp cho Tòa án đều trình bày không cung cấp hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất 186 do thất lạc hồ sơ.
[3.2] Tại Văn bản số 485/CV-UBND ngày 23/3/2022 và Văn bản số 419/UBND ngày 07/4/2023 của Ủy ban nhân dân xã Phước Tuy phúc đáp cho Tòa án thể hiện trước khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B đối với thửa đất 186 thì thửa 186 do ông B đứng tên sổ mục kê đất.
[4] Đánh giá việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
[4.1] Theo các văn bản phúc đáp trên của Ủy ban cũng như ý kiến của Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ thì không T hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông Phan Thành B thửa đất số 186 có đúng đối tượng hay không. Cho nên, cần phải xác minh quá trình sử dụng đất thực tế để xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có đúng đối tượng hay không.
[4.2] Căn cứ lời trình bày của nguyên đơn và bị đơn thì thực tế kể từ năm 1980 gia đình bà L đã quản lý, sử dụng thửa đất 186 phần khu A đến năm 2020 mới xảy ra tranh chấp. Bà N cho rằng thửa 186 có nguồn gốc ông nội chồng bà N là ông Kỳ khai hoang sử dụng rồi để lại cho cha chồng bà N là ông T sử dụng. Năm 1980, vợ ông T là bà Đ cho vợ chồng bà H, ông C là cha mẹ chồng bà L mượn sử dụng rồi bà L sử dụng đến khi tranh chấp năm 2020. Tuy nhiên, việc cho mượn thì bà N không C chứng cứ để chứng minh. Ngược lại, bà L đã sử dụng thửa đất 186 phần khu A từ năm 1980 đến năm 2020 là đã trên 30 năm. Ngoài việc thừa nhận của nguyên đơn và bị đơn về thời gian sử dụng đất của bà L thì theo các nhân chứng sinh sống gần phần đất tranh chấp là ông Lê Công C, ông Phạm Văn B, ông Lê Công N, bà Võ Thị L, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị N, ông Phan Văn L, ông Ngô Hoàng A đều xác định đất này trước đây khoảng trước năm 1980 bà H là mẹ chồng bà L canh tác rồi để lại cho vợ chồng bà L sử dụng đến khi tranh chấp. Do đó, năm 1997 Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B đối với thửa đất số 186 phần khu A là không đúng đối tượng, trái với quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 2 của Luật Đất đai năm 1993, làm ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất của bà L.
[5] Do Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 186 phần khu A không đúng đối tượng nên bà N khởi kiện yêu cầu bà L trả lại thửa 186 phần khu A là không C căn cứ chấp nhận.
[6] Đối với yêu cầu phản tố của bà L:
[6.1] Như nhận định trên, Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phan Thành B năm 1997 đối với thửa đất số 186 phần khu A không đúng đối tượng nên chấp nhận yêu cầu của bà L về hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 186 phần khu A.
[6.2] Do một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 186 phần khu A bị hủy nên xác định việc bà N cùng các con là anh K, Anh K, anh B, chị H, chị T lập Văn bản phân chia tài sản thừa kế do Văn phòng công chứng H công chứng để giao quyền cho bà N được toàn quyền định đoạt đối với thửa đất số 186 phần khu A là không đúng nên cần chấp nhận yêu cầu của bà L hủy bỏ một phần văn bản tài sản thừa kế đối với phần diện tích khu A.
[6.3] Xác định quyền sử dụng đất thửa 186 phần khu A do bà L quản lý sử dụng ổn định thời gian dài trên 30 năm không ai tranh chấp nên chấp nhận yêu cầu của bà L, công nhận quyền sử dụng đất khu A cho bà L theo quy định tại Điều 73 của Luật Đất đai năm 1993, Điều 105 Luật Đất đai năm 2003 và Điều 99 Luật Đất đai năm 2013.
[6.4] Đối với yêu cầu của bà L về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CQ 871431 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho bà Ngô Thị N ngày 11/02/2019 đối với thửa đất số 186: Căn cứ vào mục 2 phần II của Công văn số 64/TANDTC- PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà L được cấp thông qua văn bản thỏa thuận phân chia tài sản thừa kế là thủ tục hành chính, không phải cấp lần đầu nên không phải tuyên hủy. Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và Môi trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án. Do đó, không chấp nhận yêu cầu này của bà L.
[6.5] Đối với yêu cầu của bà L về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy Văn bản phân chia tài sản thừa kế, công nhận cho bà L quyền sử dụng đất đối với phần đất thửa 186 tại khu B diện tích 31,5m2 là không C căn cứ chấp nhận. Bởi vì khu B do bà L và ông B đã xác định ranh giới từ khoảng năm 2000-2003, có đóng cọc bê tông làm ranh và bà N đã sử dụng khu B không ai tranh chấp tới năm 2020, bà L cũng không C chứng cứ chứng minh việc cắm cọc ranh là tạm thời.
Từ những phân tích trên, xét Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N về việc yêu cầu bà L trả lại thửa đất số 186 khu A. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà L về việc hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 599571 do Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp cho ông B đối với thửa đất 186 phần khu A, hủy một phần Văn bản phân chia tài sản thừa kế do Văn phòng công chứng H công chứng đối với thửa 186 phần khu A, công nhận cho bà L được quyền sử dụng thửa đất số 186 phần khu A. Không chấp nhận yêu cầu của bà L về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy văn bản phân chia tài sản thừa kế, công nhận cho bà L được quyền sử dụng đối với thửa đất số 186 phần khu B là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn kháng cáo nhưng cũng không đưa ra chứng cứ, tài liệu nào mới. Do vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bà Ngô Thị N là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không C kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Ngô Thị N. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 17/2023/DS-ST ngày 27/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Áp dụng Điều 2, 73 Luật Đất đai năm 1993; Điều 105 Luật Đất đai năm 2003; Điều 99 Luật Đất đai năm 2013; Các Điều 12, 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị N về việc yêu cầu bà Lâm Thị L trả lại thửa đất số 186 phần khu A diện tích 563,7m2, loại đất NTS, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Lâm Thị L về việc yêu cầu:
2.1. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 599571 do Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp cho ông Phan Thành B ngày 12/6/1997 đối với thửa đất số 186 phần khu B diện tích 31,5m2, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
2.2. Hủy một phần Văn bản phân chia tài sản thừa kế do Văn phòng công chứng H (nay là Văn phòng công chứng Lê Hồng Bảo T) công chứng ngày 15/01/2019, số công chứng 177, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD đối với thửa đất số 186 phần khu B diện tích 31,5m2, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
2.3. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CQ 871431 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho bà Ngô Thị N ngày 11/02/2019 đối với thửa đất số 186, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
2.4. Công nhận cho bà Lâm Thị L được quyền sử dụng đối với thửa đất số 186 phần khu B diện tích 31,5m2, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Lâm Thị L về việc yêu cầu:
3.1. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 599571 do Ủy ban nhân dân huyện Huyện C Đ cấp cho ông Phan Thành B ngày 12/6/1997 đối với thửa đất số 186 phần khu A diện tích 563,7m2, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
3.2. Hủy một phần Văn bản phân chia tài sản thừa kế do Văn phòng công chứng H (nay là Văn phòng công chứng Lê Hồng Bảo T) công chứng ngày 15/01/2019, số công chứng 177, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD đối với thửa đất số 186 phần khu A diện tích 563,7m2, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
3.3 Công nhận cho bà Lâm Thị L được quyền sử dụng thửa đất số 186 phần khu A diện tích 563,7m2, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại xã P T, huyện C Đ, tỉnh Long An.
Thửa đất số 186 gồm khu A diện tích 563,7m2 và khu B diện tích 31,5m2 được thể hiện trên Mảnh trích đo địa chính số 39PT-2021 ngày 18/6/2021 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú đo vẽ được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Huyện C Đ duyệt ngày 23/6/2021.
Người được thi hành án và người phải thi hành án có nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để lập thủ tục kê khai, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp).
Trường hợp bên thi hành án không giao nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bên được thi hành án được quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh, thu hồi, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp).
4/ Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Ngô Thị N là người cao tuổi nên được miễn án phí phúc thẩm.
5/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không C kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
6/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 617/2023/DS-PT về tranh chấp quyền sử dụng đất, huỷ văn bản phân chia di sản thừa kế, huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 617/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 11/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về