Bản án 617/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về tranh chấp ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP-TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 617/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 483/2020/TLST-HNGĐ, ngày 19 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 200/2020/QĐXXST-HN, ngày 03 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Lê Thị Bé N, sinh năm 1989. Địa chỉ: ấp P, xã L, huyện H, tỉnh Hậu Giang. Chỗ ở: ấp B, xã L, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Trần Minh T, sinh năm 1985.

Địa chỉ: ấp P, xã L, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

2.1 Võ Thị Á, sinh năm 1961, cư trú: ấp B, xã T, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Có yêu cầu độc lập.

2.2 Bùi Thị N, năm sinh 1968, cư trú: ấp B, xã L, huyện H, tỉnh Hậu Giang. Có yêu cầu độc lập.

2.3 Đặng Kim X, năm sinh 1959, cư trú: ấp Long Phụng, xã Tân Long, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

Bà Võ Thị Á và Bùi Thị N có đơn xin xét xử vắng mặt. Các đương sự còn lại có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết, nguyên đơn Lê Thị Bé N (sau đây gọi chị N) trình bày: giữa chị và bị đơn Trần Minh T (sau đây gọi anh T) qua tìm hiểu nhau, tự nguyện quyết định đi đến hôn nhân vào năm 2009. Trong quá trình sống, phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do chồng chị không quan tâm đến gia đình vợ con ngay cả khi chị sinh em bé, anh Trung làm có tiền chỉ chi tiêu cá nhân, ngoài ra anh còn liên lạc với người phụ nữ khác làm cho chị mất lòng tin, nhiều lần hòa giải hàn gắn tình cảm nhưng vẫn không đoàn tụ được nên đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2019, do sống không hạnh phúc, chị khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

-Về hôn nhân: xin ly hôn với anh T.

-Về con chung: có ba người con chung:

1. Trần Vạn P (nữ), sinh ngày 23 tháng 9 năm 2010;

2. Trần Hồng H (nữ), sinh ngày 09 tháng 5 năm 2018;

3. Trần Lê Ng (nam), sinh ngày 21 tháng 01 năm 2020;

Các con chung, khi thì sống bên nội, khi thì sống bên ngoại, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi hai người con tên P và H, anh T nuôi cháu N chưa ai phải cấp dưỡng.

Về tài sản chung: cho mẹ chồng Đặng Kim X mượn 01 cây vàng 24k và 20.000.000 đồng.

Về nợ: nợ mẹ ruột Võ Thị Á 1,5 chỉ vàng 24k và 2.000.000 đồng;

Nay chị yêu cầu chia tài sản và nợ chung theo quy định pháp luật.

Đối với số tiền của bà Bùi Thị N 3 chỉ vàng 24k vợ chồng chị tự tính với bà N và bà N đã đồng ý nên không yêu cầu giải quyết.

Quá trình tố tụng, bị đơn Trần Minh T trình bày: Thừa nhận lời trình bày của nguyên đơn về quan hệ hôn nhân, thời gian ly thân, con chung. Về nguyên nhân mẫu thuẫn thì anh có quan tâm đến vợ khi sinh em bé chứ không như lời trình bày của vợ anh, anh thừa nhận vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên có cãi vã nhau, vừa qua anh chưa đồng ý ly hôn nhưng về suy nghĩ lại thấy cuộc sống chung không hạnh phúc và vợ anh hiện nay đã bỏ đi Sài Gòn làm nên anh đồng ý ly hôn.

Con chung anh yêu cầu được nuôi hai con P và N, vợ anh nuôi cháu H, chưa ai phải cấp dưỡng.

Về nợ và tài sản chung: mẹ anh không có mượn tiền và vàng của vợ chồng anh và vợ chồng anh cũng không có thiếu tiền của mẹ vợ như vợ anh trình bày.

Đối với số nợ bà N, anh T thừa nhận có thiếu nhưng để vợ chồng anh tự tính với bà N và được bà N đồng ý.

Quá trình tố tụng người liên quan Đặng Kim X trình bày: bà không có giữ tiền và vàng gì của vợ chồng Ngoan, Trung nên yêu cầu của nguyên đơn chia số tài sản đó là không có.

Quá trình tố tụng người liên quan bà Võ Thị Átrình bày: vợ chồng Ng Tr có mượn bà 1,5 chỉ vàng 24k, và 2.000.000 đồng, bà yêu cầu trả tôi số tài sản này, khi cho mượn do tin tưởng con cái nên không làm giấy tờ gì, nay Tr không thừa nhận thì bà bỏ luôn, không yêu cầu trả, xem như bà đã cho. Đồng thời, bà Á rút lại yêu cầu khợi kiện đối với vợ chồng N Tr.

Quá trình tố tụng người liên quan bà Bùi Thị N trình bày: ngày 30/4/2019 vợ chồng N Tr có mượn bà 03 chỉ vàng 24k, đóng lãi mỗi tháng 150.000 đồng, đóng được hai tháng, nay vợ chồng thừa nhận có thiếu nên để bà và vợ chồng N T tự tính với nhau và bà xin rút yêu cầu khởi kiện đối với vợ chồng N Tr, khi nào không trả thì bà sẽ kiện thành vụ kiện dân sự khác.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 06.11.2020, cháu Trần Vạn P trình bày (có sự chứng kiến của chị N): khi cha mẹ cháu không còn sống chung với nhau, cháu có nguyện vọng sống với mẹ nhưng tại phiên tòa hôm nay cháu trình bày: do hiện nay mẹ cháu đi làm không có nhà nên cháu xin được sống với cha.

Tại phiên tòa, chị N trình bày: phần nợ của mẹ ruột, anh T không thừa nhận và mẹ chị đã rút yêu cầu. Đối với phần mẹ chồng mượn tiền, do không được làm giấy tờ gì và mẹ chồng cùng anh T không thừa nhận nên chị đã rút yêu cầu về việc chia tài sản và nợ chung này. Đối với yêu cầu nuôi con: chị đồng ý nuôi cháu H, anh T nuôi cháu N. Riêng cháu P sống với ai là do cháu lựa chọn.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: về thủ tục tố tụng: Tòa án, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thuận tình ly hôn của các đương sự; giao cháu P và N cho bị đơn nuôi dưỡng; cháu H cho nguyên đơn nuôi, chưa ai phải cấp dưỡng; về nợ và tài sản chung: do các đương sự rút yêu cầu nên đề nghị đình chỉ giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp ly hôn được qui định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

[2] Xét về quan hệ hôn nhân: chị N và anh Tr qua tìm hiểu nhau, tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn ngày 10 tháng 11 năm 2009 tại Ủy ban nhân xã Tân Long, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị N: chị và anh Tr trong thời gian chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nhưng không có giải pháp khắc phục để hoà giải, hàn gắn tình cảm mà đã chọn cách sống ly thân; xét thấy thời gian ly thân thì tự ai người đó sống, không ai quan tâm, lo lắng cho ai. Trong quá trình giải quyết, anh Tr chưa đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được giải pháp để vợ chồng đoàn tụ. Tại phiên tòa, chị N xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh Tr và cương quyết xin ly hôn, anh Trung cũng đồng ý ly hôn; căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân gia đình ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa các đương sự.

[4] Về con chung: có ba người con chung, anh Tr, chị N không tranh chấp về quyền nuôi con, các đương sự thỏa thuận được với nhau: anh Tr nuôi cháu Ng, chị N nuôi cháu H, Riêng cháu P có nguyện vọng sống với ai người đó được nuôi dưỡng, sự thỏa thuận này phù hợp với nguyện vọng của cháu P (từ đủ 7 tuổi), phù hợp quy định pháp luật nên cần ghi nhận và anh chị có nghĩa vụ nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc khi chị N, anh Tr có yêu cầu khác.

[5] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: chưa ai phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho chị N và anh Tr mà không ai có quyền cản trở.

[6] Về tài sản và nợ chung: Ngày 27.11.2020 bà Võ Thị Ánh và Bùi Thị Ngon có đơn rút yêu cầu độc lập, chị Ng rút yêu cầu chia tài sản chung. Căn cứ Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự: Đình chỉ giải quyết các yêu cầu của các đương sự này và số tiền tạm ứng án phí sẽ được trả lại cho họ.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: nguyên đơn phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 217 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 53, 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị Bé N và anh Trần Minh T.

2. Về nuôi con chung: Giao hai cháu Trần Vạn P (nữ), sinh ngày 23 tháng 9 năm 2010 và cháu cháuTrần Lê N (nam), sinh ngày 21 tháng 01 năm 2020 cho anh Trần Minh Tr được trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Trần Hồng H (nữ), sinh ngày 09 tháng 5 năm 2018 cho chị Lê Thị Bé N được trực tiếp nuôi dưỡng cho khi con chung đủ 18 tuổi hoặc khi anh Tr, chị N có yêu cầu khác.

Chưa ai phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho Lê Thị Bé N và Trần Minh Tr mà không ai có quyền cản trở.

3. Về tài sản và nợ chung: Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu chia tài sản chung của chị Lê Thị Bé N về việc yêu cầu bà Đặng Kim X trả 01 cây vàng 24k và 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

- Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của bà Võ Thị Á về việc yêu cầu Lê Thị Bé N và Trần Minh Tr trả 1,5 chỉ vàng 24k, và 2.000.000đ (hai triệu đồng);

- Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của bà Bùi Thị N về việc yêu cầu Lê Thị Bé Nvà Trần Minh Tr trả 03 chỉ vàng 24k.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: chị Lê Thị Bé N phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ từ 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005905, ngày 13 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang thành án phí, không phải nộp thêm.

- Chị Lê Thị Bé N được nhận lại 2.250.000đ (hai triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí chia tài sản chung theo biên lai thu số 0005904, ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

- Bà Võ Thị Á được nhận lại 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005996, ngày 06 tháng 11 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

- Bà Bùi Thị N được nhận lại 400.000đ (bốn trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005995, ngày 06 tháng 11 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 617/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về tranh chấp ly hôn 

Số hiệu:617/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;