Bản án 616/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 616/2020/HS-ST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 17 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 543/2020/TLST-HSST ngày 02 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 624/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đỗ Minh S. tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam.

Sinh năm 1984 tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: 105/21A, khu phố 2, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp:

Buôn bán. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể ): Không. Trình độ học vấn: Lớp 9/12. Con ông Đỗ Minh Th, sinh năm 1954 và bà L Thị L, sinh năm 1962. Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Có vợ là Hoàng Thị Minh T, sinh năm 1999; bị cáo có 02 người con sinh năm 2008 và năm 2017. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ ngày từ 25/4/2020 đến ngày 02/5/2020. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Đặng Đình T. tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam.

Sinh năm 1968 tại Bình Thuận.

Nơi cư trú: 10/7, khu phố 1, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên Chúa. Nghề nghiệp: Không. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể ): Không. Trình độ học vấn: Lớp 9/12. Con ông Đặng Đình Th, sinh năm 1928 (đã chết) và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1932 (đã chết). Gia đình có 10 anh chị em, bị cáo là con thứ tám. Có vợ: Đỗ Thị Hồng V, sinh năm 1969; Bị cáo có 02 người con sinh năm 1994 và năm 2000. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 25/4/2020 đến ngày 02/5/2020. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Đinh Trường G. tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam.

Sinh năm 1981 tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: 243 tổ 19, khu phố 2, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên Chúa. Nghề nghiệp: Buôn bán. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể ): Không. Trình độ học vấn: Lớp 10/12. Con ông Đinh Văn L, sinh năm 1952 (đã chết) và bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1949 (còn sống). Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ năm. Có vợ: Trần Thị Kim Y, sinh năm 1985. Bị cáo có 02 người con sinh năm 2008 và năm 2012. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 25/4/2020 đến ngày 02/5/2020. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Huỳnh Thị Hoàng Y. tên gọi khác: Không. Giới tính: Nữ.

Sinh năm 1985 tại Bình Dương.

Nơi cư trú: 448 khu phố T, phường T, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Nội trợ. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể ): Không. Trình độ học vấn: Lớp 11/12. Con ông Huỳnh Tấn Đ, sinh năm 1961 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959. Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai. Có chồng: L Văn B, sinh năm 1980. Bị cáo có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2019. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (do đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi). Có mặt tại phiên tòa.

5. Họ và tên: Nguyễn Minh L. tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh năm 1983 tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: 226A, khu phố 2, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Phật. Nghề nghiệp: Công nhân. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể ): Không. Trình độ học vấn: Lớp 12/12. Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1938 (đã chết) và bà Trương Thị G, sinh năm 1946 (đã chết). Gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ năm và chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 25/4/2020 đến ngày 02/5/2020. Hiện bị can đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

6. Họ và tên: Nguyễn Anh D. tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh năm 1988 tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: 42/10E, khu phố 2, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên chúa. Nghề nghiệp:

Chạy xe mô tô chở khách (xe ôm). Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể ): Không. Trình độ học vấn: Lớp 10/12. Con ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1961 (đã chết) và bà Trần Thị Hoàng O, sinh năm 1964 (còn sống). Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ ba. Có vợ: Phan Thụy Ngọc G, sinh năm 1993. Bị cáo có 01 người con sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 25/4/2020, tại quán cà ph “Phúc L”, địa chỉ 167/30E, khu phố 1, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (do Đỗ Minh S làm chủ), S đồng ý cho Đặng Đình T, Đinh Trường G, Nguyễn Minh L, Huỳnh Thị Hoàng Y, Nguyễn Anh D, Quách Cẩm L (sinh năm 1978, ngụ tại: 82/18E, khu phố 2, phường T, thành phố Biên Hòa), L Ngọc M (sinh năm 1972, ngụ tại: 167/30B, khu phố 1, phường T, thành phố Biên Hòa), Nguyễn Minh Ch (sinh năm 1972, ngụ tại 249, khu phố 2, phường T, thành phố Biên Hòa) đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền để thu lợi bất chính. Những người tham gia đánh bạc chia làm 02 sòng bạc như sau:

* Sòng thứ nhất:

Khoảng 11 giờ ngày 25/4/2020, tại quán cà ph “Phúc L”, Đặng Đình T, Đinh Trường G, Huỳnh Thị Hoàng Y và Nguyễn Anh D rủ nhau chơi đánh bạc hình thức đánh bài “Binh xập xám”.

Cách thức như sau: Bộ bài tây gồm 52 lá, được chia cho 04 người, mỗi người 13 lá bài xếp thành 03 hàng (còn gọi là 03 chi) từ nhỏ đến lớn, chi trên 03 lá, 02 chi sau mỗi chi 05 lá. Các chi theo thứ tự từ lớn đến bé gồm: “Thùng phá sảnh” là 05 lá bài liền nhau cùng màu, cùng chất (ví dụ: 2, 3, 4, 5, 6 rô). “Tứ quý” là 05 lá bài trong đó có 04 lá bài cùng số (ví dụ 04 quân 9 và 01 quân J). “Cù lũ” là gồm 01 bộ ba và 01 bộ đôi (ví dụ 03 quân J và 02 quân Q). “Thùng” là gồm những lá bài cùng chất (ví dụ: 2, 3, 5, 7, 9 cơ). “Sảnh” gồm 05 lá bài liên tiếp không cùng một chất (ví dụ: 10 cơ, J chuồn, Q bích, K rô, A bích)… Trường hợp đặc biệt bài “Mậu binh” là bài gồm “Thùng phá sảnh”, “Tứ quý”, 03 cái “Thùng” hoặc 06 đôi. Sau khi chia bài xong, người chia bài (cầm cái) sẽ so bài của mình với bài của 03 người còn lại theo từng chi tương ứng, nếu người nào có bài “Mậu binh” thì sẽ thắng 03 người còn lại; nếu bài của người nào có chi lớn hơn sẽ thắng bài của người có chi bé hơn; nếu bài của người nào thắng 01 chi, thua 01 chi, hòa 01 chi thì hòa.

T, G, Y và D thỏa thuận xoay tua cầm cái để ăn thua với 03 người còn lại, mỗi ván bạc thắng thua với số tiền từ 60.000đ (Sau mươi nghìn đồng) đến 180.000đ (Một trăm tám mươi nghìn đồng). Khi người chơi có bài “Mậu binh” thì sẽ bỏ ra 20.000 đồng là tiền xâu cho S.

Số tiền dùng đánh bạc cụ thể như sau:

- Đặng Đình T mang theo số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) sử dụng vào việc đánh bạc. Quá trình đánh bạc, T bị thua 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), còn 1.700.000đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng) để dưới chiếu bạc, thu giữ trên người 3.000.000đ (Ba triệu đồng) sử dụng đánh bạc.

- Đinh Trường G mang theo số tiền 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng) sử dụng vào việc đánh bạc. Quá trình đánh bạc, G bị thua 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), còn 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) để dưới chiếu bạc bị tạm giữ.

- Huỳnh Thị Hoàng Y mang theo số tiền 1.650.000đ (Một triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng) sử dụng vào việc đánh bạc. Y thắng 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), tổng cộng là 1.850.000đ (Một triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng) để dưới chiếu bạc bị tạm giữ.

- Nguyễn Anh D mang theo số tiền 1.660.000đ (Một triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng) sử dụng vào việc đánh bạc và bị thua hết.

Khoảng 13 giờ cùng ngày, D thua hết tiền nên nghỉ về trước, lúc này Nguyễn Minh L vào chơi. Minh L mang theo số tiền 2.130.000đ (Hai triệu một trăm ba mươi nghìn đồng) dùng vào việc đánh bạc, bị thua 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng) còn lại 1.530.000đ (Một triệu năm trăm ba mươi nghìn đồng) để dưới chiếu bạc bị tạm giữ.

Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, S thu xâu được 140.000đ (Một trăm bốn mươi nghìn đồng), T, G, Y và Minh L đang tiếp tục tham gia đánh bạc thì bị Công an phường T phối hợp với Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố Biên Hòa kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Công an thu giữ số tiền 8.100.000đ (Tám triệu một trăm nghìn đồng) trên chiếu bạc.

* Sòng thứ hai:

Khoảng 11 giờ ngày 25/4/2020, tại quán cà ph “Phúc L”, Đỗ Minh S, Quách Cẩm L, L Ngọc M và Nguyễn Minh Ch rủ nhau đánh bạc bằng hình thức chơi cờ cá ngựa thắng thua bằng tiền từ 20.000đ (Hai mươi nghìn đồng) đến 40.000đ (Bốn mươi nghìn đồng).

Số tiền dùng đánh bạc cụ thể như sau:

+ Đỗ Minh S sử dụng 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng) vào việc đánh bạc, thắng 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng), bị tạm giữ trên người số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng).

+ Lê Ngọc M sử dụng 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) vào việc đánh bạc, thắng 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) để dưới chiếu bạc và bị tạm giữ.

+ Nguyễn Minh Ch sử dụng 220.000đ (Hai trăm hai mươi nghìn đồng) vào việc đánh bạc, bị thua 170.000đ (Một trăm bảy mươi nghìn đồng) và để dưới chiếu bạc 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng) bị tạm giữ.

+ Quách Cẩm L không nhớ rõ mang theo bao nhiêu tiền sử dụng đánh bạc. Quá trình đánh bạc không rõ thắng thua, khi bị bắt bị tạm giữ trên người 150.000đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng).

Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, S thu xâu được 130.000đ (Một trăm ba mươi nghìn đồng), S, Cẩm L, M và Ch đang tiếp tục tham gia đánh bạc thì bị Công an phường T phối hợp với Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố Biên Hòa kiểm tra, phát hiện thu giữ số tiền 900.000đ (Chín trăm nghìn đồng) trên chiếu bạc.

* Vật chứng thu giữ trên sòng bài binh xập xám:

- 01 bộ bài tây 52 lá sử dụng đánh bạc;

- 12.240.000đ (Mười hai triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng) sử dụng đánh bạc. Trong đó, thu giữ trên chiếu bạc: 8.100.000đ (Tám triệu một trăm nghìn đồng); Thu giữ trên người số tiền dùng đánh bạc: 3.000.000đ (Ba triệu đồng) của Đặng Đình T, 1.000.000đ (Một triệu đồng) của Đinh Trường G và tiền thu xâu của Đỗ Minh S 140.000đ (Một trăm bốn mươi nghìn đồng) trong vỏ lon sữa.

* Vật chứng thu giữ trên sòng bài cờ cá ngựa:

- 01 bộ cờ cá ngựa, 02 xúc xắc, 01 chén sử dụng đánh bạc;

- 2.180.000đ (Hai triệu một trăm tám mươi nghìn đồng) sử dụng đánh bạc. Trong đó, thu giữ trên chiếu bạc: 900.000đ (Chín trăm nghìn đồng); Thu giữ trên người số tiền dùng đánh bạc: 1.000.000đ (Một triệu đồng) của Đỗ Minh S, 150.000đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng) của Quách Cẩm L và tiền thu xâu của S 130.000đ (Hai trăm ba mươi nghìn đồng) trong vỏ lon sữa.

- 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) là tiền của S bán nước mà có không liên quan đến việc đánh bạc.

* Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu giữ và giao trả số tài sản không liên quan đến việc phạm tội gồm:

+ 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung A10 số thu bao 0908.645569, số Imei 1: 357966102029569/01, số Imei 2: 35797102029567/01 của Đỗ Minh S.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 số thu bao 0913.850577, số Imei: 353260074656615 của Đặng Đình T.

+ 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung A8 Plus, số thu bao 0977.611439, số Imei 1: 355113090429913101, Imei 2: 355114090429911/01; 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, số thu bao 0933294752, số Imei: 351980102354089 của Huỳnh Thị Hoàng Y.

+ 01 điện thoại di động hiệu OPPO số thu bao 0909.903239, số Imei 1: 863069037845519, Imei 2: 863069037845501 của Đinh Trường G.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5S, số thu bao 0938.376669, Imei: 358806051222519, 01 xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo biển số 60N6- 7937 của Nguyễn Minh L.

+ 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI màu trắng, Imei 1: 866214045805546, Imei 2: 866214045836558, 01 xe mô tô hiệu Honda AirBlade biển số 54S3- 3546 của Quách Cẩm L.

+ 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy A6 màu xanh, Imei 1: 357931091816608, Imei 2: 357932091816606/01; 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60S3- 9971 và 450.000đ (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng) của anh Nguyễn Vũ Ph.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1017 màu đen, Imei 1: 35901609947620, Imei 2: 59016099976204; 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60B8 – 661.37 của ông Nguyễn Văn H.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia 150 và 5.000.000đ (Năm triệu đồng) của anh L Văn M.

Tại cáo trạng số 556/CT-VKSBH-HS ngày 30 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố các bị cáo: Đỗ Minh S, Đặng Đình T, Đinh Trường G, Nguyễn Minh L, Huỳnh Thị Hoàng Y và Nguyễn Anh D về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, các bị cáo Đỗ Minh S, Đặng Đình T, Đinh Trường G, Nguyễn Minh L, Huỳnh Thị Hoàng Y và Nguyễn Anh D khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra, công nhận nội dung bản cáo trạng đã truy tố các bị cáo về tội danh và điều, khoản như đã nêu trên là đúng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tham gia phiên tòa trình bày luận tội nêu tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo theo điều, khoản và tội danh nêu trên; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tất cả các bị cáo không có tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tất cả các bị can đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo Huỳnh Thị Hoàng Y đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt, căn cứ Điều 58, Điều 35 Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt tiền đối với các bị cáo như sau:

Đỗ Minh S, từ 25.000.000đ đến 30.000.000đ; Đặng Đình T, từ 25.000.000đ đến 30.000.000đ; Đinh Trường G, từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ; Nguyễn Minh L, từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ;

Huỳnh Thị Hoàng Y, từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ; Nguyễn Anh D, từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ;

* Về xử lý vật chứng: Viện kiểm sát đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá và 01 bộ cờ cá ngựa, 02 xúc xắc, 01 chén và 02 vỏ lon sữa.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 14.420.000đ (Mười bốn triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng) là tiền sử dụng đánh bạc.

- Trả lại cho S 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại phiên tòa, các bị cáo: Đỗ Minh S, Đặng Đình T, Đinh Trường G, Nguyễn Minh L, Huỳnh Thị Hoàng Y và Nguyễn Anh D không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì thêm đối với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng các bị cáo đều nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho các bị cáo.

- Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. Biên Hòa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét thấy, lời khai nhận tội của các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa là thống nhất, phù hợp nhau và phù hợp với lời khai của người làm chứng, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 14 giờ ngày 25/4/2020, tại quán cà ph “Phúc L” - Địa chỉ 167/30E, khu phố 1, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai do Đỗ Minh S làm chủ, S đồng ý cho Đặng Đình T, Đinh Trường G, Nguyễn Minh L, Huỳnh Thị Hoàng Y và Nguyễn Anh D thực hiện hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền nhằm sát phạt lẫn nhau dưới hình thức đánh bài “Binh xập xám” với tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 12.240.000đ (Mười hai triệu, hai trăm bốn mươi nghìn đồng).

[3] Về tội danh và khung hình phạt:

Xét thấy, hành vi của các bị cáo Đặng Đình T, Đinh Trường G, Nguyễn Minh L, Huỳnh Thị Hoàng Y và Nguyễn Anh D như đã nêu trên, đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; bị cáo Đỗ Minh S đồng ý cho bị cáo T, G, L, Y và D sử dụng địa điểm thuộc quyền quản lý, sử dụng của mình để đánh bạc trái phép với số tiền dùng vào việc đánh bạc là 12.240.000đ, tuy bị cáo không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” nhưng bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm của tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố các bị cáo Đỗ Minh S, Đặng Đình T, Đinh Trường G, Nguyễn Minh L, Huỳnh Thị Hoàng Y và Nguyễn Anh D là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình.

[4] Vai trò đồng phạm trong vụ án:

Xét vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, cấu thành không có tổ chức, các bị cáo Đặng Đình T, Đinh Trường G, Nguyễn Minh L, Huỳnh Thị Hoàng Y và Nguyễn Anh D đều tham gia với vai trò là người thực hành, trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, cụ thể số tiền của từng bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc, như sau: Đặng Đình T sử dụng 5.000.000đ (Năm triệu đồng), Đinh Trường G sử dụng 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng), Huỳnh Thị Hoàng Y sử dụng 1.650.000đ (Một triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng), Nguyễn Minh L sử dụng 2.130.000đ (Hai triệu một trăm ba mươi nghìn đồng) và Nguyễn Anh D sử dụng 1.660.000đ (Một triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng) để đánh bạc; Đỗ Minh S là người giúp sức thực hiện hành vi đánh bạc, thu xâu được 270.000đ (Hai trăm bảy mươi nghìn đồng).

Do đó, khi xét đến vị trí, tính chất, mức độ hành vi của từng bị cáo cần xem xét đến số tiền cụ thể mà bị cáo đã sử dụng vào việc đánh bạc và vai trò giúp sức của bị cáo để phân hóa tội phạm và quyết định mức hình phạt tương xứng theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tính chất, mức độ hành vi của các bị cáo:

Hành vi của các bị cáo là nguy hi m cho xã hội, đã vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm trật tự quản lý công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, làm gia tăng tệ nạn xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc đánh bạc dưới mọi hình thức thắng thua bằng tiền nhằm sát phạt lẫn nhau đều vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi mà các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Xét thấy, các bị cáo Đỗ Minh S, Đặng Đình T, Đinh Trường G, Nguyễn Minh L, Huỳnh Thị Hoàng Y và Nguyễn Anh D, đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét thấy, các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, đều tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo Y đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại s, i khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ phần nào mức hình phạt cho các bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[8] Về quyết định hình phạt:

Xét tội phạm mà các bị cáo đã thực hiện là tội ít nghiêm trọng, số tiền đánh bạc không lớn, các bị cáo T, S, G, L đã có thời gian bị tạm giữ nhất định; quá trình tại ngoại các bị cáo không vi phạm pháp luật, trên cơ sở xem xét các tình tiết giảm nhẹ và tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Hội đồng xét xử, xét thấy áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính quy định tại Điều 35 Bộ luật Hình sự để xét xử đối với các bị cáo theo như quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, với mức tiền phạt phù hợp, cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe và đấu tranh phòng ngừa chung.

[9] Về xử lý vật chứng trong vụ án:

- Đối với 01 bộ bài tây 52 lá và 01 bộ cờ cá ngựa, 02 xúc xắc, 01 chén và 02 vỏ lon sữa, là công cụ dùng vào việc phạm tội; Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 12.240.000đ (Mười hai triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng) sử dụng đánh bạc tại sòng bạc “Binh xập xám”, trong đó: thu giữ trên chiếu bạc 8.100.000đ (Tám triệu một trăm nghìn đồng); thu giữ trên người số tiền dùng đánh bạc của Đặng Đình T 3.000.000đ (Ba triệu đồng), của Đinh Trường G 1.000.000đ (Một triệu đồng) và tiền thu xâu của Đỗ Minh S 140.000đ (Một trăm bốn mươi nghìn đồng) và số tiền 2.180.000đ (Hai triệu một trăm tám mươi nghìn đồng) sử dụng đánh bạc tại sòng bạc chơi “Cờ cá ngựa”, trong đó: thu giữ trên chiếu bạc 900.000đ (Chín trăm nghìn đồng); thu giữ trên người số tiền dùng đánh bạc: 1.000.000đ (Một triệu đồng) của Đỗ Minh S, 150.000đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng) của Quách Cẩm L và tiền thu xâu của S 130.000đ (Hai trăm ba mươi nghìn đồng). Tổng cộng số tiền 14.420.000đ (Mười bốn triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng).

Xét thấy, số tiền nêu trên là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc và tiền thu lợi bất chính; Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với số tiền 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) của bị cáo S, cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Toàn bộ số vật chứng nêu trên được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/10/2020 và Biên lai thu tiền số 000159 ngày 15/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).

* Đối với các tài sản bị thu giữ, gồm:

+ 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung A10 số thu bao 0908.645569, số Imei 1: 357966102029569/01, số Imei 2: 35797102029567/01 của Đỗ Minh S.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 số thu bao 0913.850577, số Imei: 353260074656615 của Đặng Đình T.

+ 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung A8 Plus, số thu bao 0977.611439, số Imei 1: 355113090429913101, Imei 2: 355114090429911/01; 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, số thu bao 0933294752, số Imei: 351980102354089 của Huỳnh Thị Hoàng Y.

+ 01 điện thoại di động hiệu OPPO số thu bao 0909.903239, số Imei 1: 863069037845519, Imei 2: 863069037845501 của Đinh Trường G.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5S, số thu bao 0938.376669, Imei: 358806051222519, 01 xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo biển số 60N6- 7937 của Nguyễn Minh L.

+ 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI màu trắng, Imei 1: 866214045805546, Imei 2: 866214045836558, 01 xe mô tô hiệu Honda AirBlade biển số 54S3- 3546 của Quách Cẩm L.

+ 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy A6 màu xanh, Imei 1: 357931091816608, Imei 2: 357932091816606/01; 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60S3- 9971 và 450.000đ (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng) của anh Nguyễn Vũ Ph.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1017 màu đen, Imei 1: 35901609947620, Imei 2: 59016099976204; 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60B8 – 661.37 của ông Nguyễn Văn H.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia 150 và 5.000.000đ (Năm triệu đồng) của anh L Văn M.

Xét thấy, các tài sản nêu trên không liên quan đến việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa trả lại cho chủ sở hữu, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[10] Về các nội dung khác:

Đối với Quách Cẩm L, L Ngọc M và Nguyễn Minh Ch chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc. Vào ngày 25/4/2020, Cẩm L, M và Ch có hành vi đánh bạc bằng hình thức chơi “Cờ cá ngựa”, nhưng số tiền dùng vào việc đánh bạc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an thành phố Biên Hòa đã xử phạt hành chính là phù hợp.

[11] Về án phí: Các bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.

[12] Đối với phần trình bày và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa tại phiên tòa, xét thấy phù hợp với những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định về vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo: Đỗ Minh S, Đặng Đình T, Đinh Trường G, Nguyễn Minh L, Huỳnh Thị Hoàng Y Nguyễn Anh D phạm tội “Đánh bạc”.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

2.1. Xử phạt: Đỗ Minh S 25.000.000 (Hai mươi lăm triệu đồng).

2.2. Xử phạt: Đặng Đình T 25.000.000 (Hai mươi lăm triệu đồng).

2.3. Xử phạt: Đinh Trường G 20.000.000 (Hai mươi triệu đồng).

2.4. Xử phạt: Nguyễn Minh L 20.000.000 (Hai mươi triệu đồng).

2.5. Xử phạt: Huỳnh Thị Hoàng Y 20.000.000 (Hai mươi triệu đồng).

2.6. Xử phạt: Nguyễn Anh D 20.000.000 (Hai mươi triệu đồng).

3. Về xử lý vật chứng trong vụ án: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá và 01 bộ cờ cá ngựa, 02 xúc xắc, 01 chén và 02 vỏ lon sữa.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 14.420.000đ (Mười bốn triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng).

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) của Đỗ Thanh S để đảm bảo thi hành án.

(Toàn bộ số vật chứng nêu trên được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/10/2020 và Biên lai thu tiền số 000159 ngày 15/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Đỗ Minh S, Đặng Đình T, Đinh Trường G, Nguyễn Minh L, Huỳnh Thị Hoàng Y và Nguyễn Anh D; Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 616/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:616/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;