TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ RIỀNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 61/2020/HSST NGÀY 30/10/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 30 tháng 10 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 63/2020/HSST ngày 11 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2020 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 33/2020/TB-HS ngày 25 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Đinh Bá B, sinh năm 1976 tại Hải Dương; HKTT: Thôn 2, xã L, huyện R, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Làm nông; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Đinh Bá C – Đã chết và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1953; Vợ là bà Võ Thị C, sinh năm 1978 và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2020 đến ngày 13/6/2020 được tại ngoại cho đến nay, “có mặt”.
Nhân thân: Bị Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc” tại bản án hình sự sơ thẩm số 164/2013/HSST ngày 25/11/2013.
2. Họ và tên: Trịnh Đức D, sinh năm 1978 tại Thanh Hóa; HKTT: Thôn 2, xã L, huyện R, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Làm nông; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 3/12; Con ông Trịnh Đức U\n, sinh năm 1932 và bà Đinh Thị T, sinh năm 1932; Vợ là bà Đinh Thị C, sinh năm 1977 và có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2020 đến ngày 13/6/2020 được tại ngoại cho đến nay, “có mặt”.
Nhân thân: Bị Công an huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xử phạt 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi “Đánh bạc” tại Quyết định xử lý vi phạm hành chính số 141/QĐ-XPHC ngày 28/7/2015 3. Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh năm 1973 tại Thanh Hóa; HKTT: Thôn A, xã H, huyện R, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Làm nông; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 4/12; Con ông Nguyễn Thành L (Đã chết) và bà Nguyễn Thị N (Đã chết); Vợ là bà Vũ Thị T, sinh năm 1976 và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2020 đến ngày 13/6/2020 được tại ngoại cho đến nay, “có mặt”.
4. Họ và tên: Trần Thái T, sinh năm 1971 tại Thanh Hóa; HKTT: Thôn A, xã H, huyện R, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Làm nông; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Trần Văn L (Đã chết) và bà Trịnh Thị S, sinh năm 1938; Vợ là bà Lưu Thị T, sinh năm 1975 (Đã ly hôn) và có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2020 đến ngày 13/6/2020 được tại ngoại cho đến nay, “có mặt”.
*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Bà Lê Thị H, sinh năm 1980 (Vắng mặt) Trú tại: Thôn 2, xã Long Bình, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ ngày 04/6/2020 Nguyễn Văn H, Trần Thái T, Trịnh Đức D và Đinh Bá B (Bảy) đến nhà ông Lê Thế H tại thôn 2, xã Long Bình, huyện Phú Riềng uống rượu. Đến 13 giờ cùng ngày H, T, B và D rủ nhau chơi đánh bài “Cào liêng” thắng thua bằng tiền thì tất cả đồng ý.
Hình thức đánh bài “Cào liêng” như sau: Sử dụng bộ bài tây 52 lá chia đều cho tất cả người tham gia, mỗi người 03 lá bài và đặt vào bàn chơi 50.000 đồng (gọi là tiền đường). Khi chia bài xong, người chia bài tố giá tiền trước 50.000 đồng, sau đó lần lượt tới những người chơi tố theo quay vòng cho đến khi hết. Nếu người chơi kế tiếp không theo bài hoặc tố thêm tiền thì có thể úp bỏ bài. Khi những người chơi chỉ theo tiền mà không tiếp tục tố thêm thì những người còn lại mới lật bài ra để xem bài ai lớn thì ăn. Quy ước 03 lá bài lớn nhất là bài ba cào (ba lá bài giống nhau), kế tiếp là bài liêng (ba lá bài liên tiếp nhau), tiếp theo là bài ba tây, rồi cuối cùng mới đếm nút (điểm) cao nhất là chín nút, thấp nhất là không có nút nào.
Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, Công an xã L, huyện R tiến hành kiểm tra tại nhà ông Lê Thế H bắt quả tang các đối tượng trên đang đánh bạc thắng thua bằng tiền.
Cơ quan Công an huyện Phú Riềng tiến hành lập biên bản quả tang đồng thời thu giữ:
- Số tiền 5.250.000đ (Năm triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng); 02 bộ bài tây đã qua sử dụng; 01 chiếc chiếu cói; 01 điện thoại đi dộng hiệu Samsung Galaxy A20, màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s Plus màu vàng - trắng.
- Thu giữ trên trên người của Trần Thái T số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng);
- Thu giữ trên người Trịnh Đức D số tiền 42.000đ (Bốn mươi hai nghìn đồng);
- Thu giữ trước sân nhà nơi các đối tượng đánh bạc 01 (một) xe môtô hiệu Sirius, màu vàng – đen, biển số: 93H6 – 2013, đã qua sử dụng.
Quá trình điều tra xác định, Đinh Bá B sử dụng 500.000 đồng vào mục đích đánh bạc, Trịnh Đức D sử dụng 1.350.000 đồng vào mục đích đánh bạc, Nguyễn Văn H sử dụng 800.000 đồng vào mục đích đánh bạc và Trần Thái T sử dụng số tiền 6.600.000 đồng vào mục đích đánh bạc.
Như vậy, tổng số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc là 9.250.000đ (Chín triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).
Tại bản Cáo trạng số: 52/CTr-VKS ngày 31/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm x, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 36; Điều 58 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Đinh Bá B mức án từ 15 tháng đến 20 tháng cải tạo không giam giữ.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 36 ; Điều 58 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Trịnh Đức D mức án từ 15 tháng đến 20 tháng cải tạo không giam giữ.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H mức án từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.
Xử phạt bị cáo Trần Thái T mức án từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.
Ngoài ra còn xử lý về vật chứng của vụ án.
Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trên và các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra , Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản phạm tội quả tang, các tài liệu chứng cứ, vật chứng của vụ án, nên có đủ căn cứ xác định:
Do mục đích tư lợi cá nhân, muốn kiếm tiền bất chính nên vào khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 04/6/2020, tại nhà ông Lê Thế H thuộc thôn 2, xã Long Bình, huyện Phú Riềng, các bị cáo Đinh Bá B, Trịnh Đức D, Nguyễn Văn H và Trần Thái T đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức chơi bài Cào Liêng thắng thua bằng tiền bị bắt quả tang. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 9.250.000đ (Chín triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).
Hành vi của các bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự công cộng tại địa phương. Các bị cáo đều nhận thức được hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật nhưng các bị cáo vẫn thực hiện nhằm mục đích thu lợi cho bản thân. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là những người quen biết nhau do sống cùng địa phương, trong vụ án này không xác định được người khởi xướng, rủ rê mà các bị cáo cùng nhau vào tham gia đánh bạc. Các bị cáo cùng là đồng phạm của nhau.
[4]. Xét về tính chất vụ án: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn công cộng và là nguyên nhân gây nên các tội phạm khác, làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng các bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội.
Với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra cân xư phat các bị cáo một mức hình phạt tương xứng để giáo dục , cải tạo các bị cáo và phòng ngưa chung trong xã hội.
[5] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Các bị cáo Nguyễn Văn H, Trần Thái T được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, số tiền sử dụng vào việc đánh bạc không lớn, các bị cáo không phải đánh bạc chuyên nghiệp mà chỉ là nhất thời phạm tội. Đây là tình tiết giảm nhẹ phần hình phạt theo quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Đối với bị cáo Trịnh Đức D là người có nhân thân xấu. Bị cáo đã bị Công an huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xử phạt 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi “Đánh bạc” tại Quyết định xử lý vi phạm hành chính số 141/QĐ-XPHC ngày 28/7/2015, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại thực thiện hành vi phạm tội mới. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chưa có tiền án, tiền sự, số tiền sử dụng vào việc đánh bạc không lớn, bị cáo không phải đánh bạc chuyên nghiệp mà chỉ là nhất thời phạm tội.
Đây là tình tiết giảm nhẹ phần hình phạt theo quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Đối với bị cáo Đinh Bá B là người đã bị Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc” tại bản án hình sự sơ thẩm số 164/2013/HSST ngày 25/11/2013. Bị cáo đã được xóa án tích, bị cáo phải chịu hình phạt cáo hơn các bị cáo khác. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, số tiền sử dụng vào việc đánh bạc không lớn, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Ngoài ra bố bị cáo là người có công với cách mạng. Đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào vai trò của các bị cáo trong vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thấy rằng:
Các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội ít nguy hiểm có thể tự cải tạo bản thân để trở thành công dân tốt cho xã hội, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo là phù hợp.
Các bị cáo nhất thời phạm tội và phạm tội không có tính chuyên nghiệp, các bị cáo không sử dụng số tiền đánh bạc làm nguồn thu nhập chính nên không khấu trừ phần thu nhập đối với các bị cáo.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Đối với ông Lê Thế Hiếu là chủ nhà nhưng do nhậu say nên đi ngủ trước, không biết các bị cáo đánh bạc thắng thua bằng tiền lý không có căn cứ để xử lý đối với Hiếu nên HĐXX không xem xét giải quyết.
Về xử lý vật chứng:
- 02 bộ bài tây đã qua sử dụng thu giữ tại vị trí đánh bạc là vật chứng của vụ án nên tịch thu tiêu hủy.
- 01 chiếc chiếu cói thu giữ tại vị trí đánh bạc, xác định là tài sản của nhà ông Lê Thế Hiếu dùng để bày thức ăn sau đó các bị cáo sử dụng để đánh bạc, không phải là vật chứng của vụ án nên trả lại cho ông Hiếu.
- Đối với số tiền 5.250.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc là vật chứng vụ án nên tịch thu sung quỹ nhà nước.
- Đối với số tiền 4.000.000 đồng thu giữ trên người Trần Thái T xác định Thụy đã sử dụng vào mục đích đánh bạc nên tịch thu sung quỹ nhà nước.
- Đối với số tiền 42.000 đồng thu giữ trên người Trịnh Đức D xác định Duẩn không sử dụng vào mục đích đánh bạc cần trả lại cho D.
- Đối với 01 (một) điện thoại đi dộng hiệu Samsung Galaxy A20, màu đen và 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6s Plus màu vàng - trắng và 01 (một) xe môtô hiệu Sirius, màu vàng – đen, biển số: 93H6 – 2013, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định là tài sản của T, D và H không sử dụng vào mục đích phạm tội nên Cơ quan Công an huyện Phú Riềng đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho các bị cáo nên HĐXX khồng xem xét.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Đinh Bá B, Trịnh Đức D, Nguyễn Văn H và Trần Thái T phạm tội “Đánh bạc”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Đinh Bá B 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ. Được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam trước đó từ ngày 04/6/2020 đến ngày 13/6/2020 quy đổi bằng 01 (Một) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 36; Điều 58 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Trịnh Đức D 15 (Mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ. Được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam trước đó từ ngày 04/6/2020 đến ngày 13/6/2020 quy đổi bằng 01 (Một) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam trước đó từ ngày 04/6/2020 đến ngày 13/6/2020 quy đổi bằng 01 (Một) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Xử phạt bị cáo Trần Thái T 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam trước đó từ ngày 04/6/2020 đến ngày 13/6/2020 quy đổi bằng 01 (Một) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Giao các bị cáo Đinh Bá B, Trịnh Đức D cho Ủy ban nhân dân xã Long Bình để giám sát và giáo dục trong thời gian cải tạo không giam g iữ.
Giao các bị cáo Nguyễn Văn H, Trần Thái T cho Ủy ban nhân dân xã Long Hà để giám sát và giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ .
Không khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo vì các bị cáo nhất thời phạm tội, số tiền mà sử dụng vào việc đánh bạc không lớn, các bị cáo không sử dụng số tiền đánh bạc làm nguồn thu nhập chính.
2. Về xử lý vật chứng:
Áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với số tiền 9.250.000đ (Chín triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng);
- Tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 02 (hai) bộ bài tây đã qua sử dụng - Trả lại cho Trịnh Đức D số tiền 42.000đ (Bốn mươi hai nghìn đồng).
(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 0011693 ngày 10/9/2020 giữa Công an huyện Phú Riềng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Riềng)
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 các bị cáo Đinh Bá B, Trịnh Đức D, Nguyễn Văn H và Trần Thái T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 61/2020/HSST ngày 30/10/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 61/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Riềng - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/10/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về