Bản án 61/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 61/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 7 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 227/2020/TLST–HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 134/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc V, sinh năm: 1984. Địa chỉ: Ấp 6, thị trấn G, huyện G, tỉnh B.

2. Bị đơn: Anh Võ Minh T, sinh năm: 1986. Địa chỉ: Ấp 6, thị trấn G, huyện G, tỉnh B.

Tại phiên tòa sơ thẩm, chị V có mặt, anh T vắng mặt (Anh T có yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 15/6/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Ngọc V trình bày:

Chị và bị đơn là anh Võ Minh T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện G, tỉnh B vào ngày 03/8/2010. Chị và anh T chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, sau đó giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên anh chị đã sống ly thân từ tháng 02/2020 đến nay. Nay chị V xác định tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Trong quá trình chung sống, chị và anh T có 02 con chung là: Võ Quỳnh Lam, sinh ngày: 19/6/2011 và Võ Quỳnh Chi, sinh ngày: 04/9/2015, hiện do chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, chị có yêu cầu được tiếp tục nuôi cả hai con chung, không yêu cầu anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị V khai không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi nhận ý kiến của đương sự ngày 10/7/2020 anh Võ Minh T trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị V kết hôn với nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn G, huyện G, tỉnh B. Trong quá trình chung sống vợ chồng cũng có mâu thuẫn, nay chị V xin ly hôn thì anh cũng đồng ý.

Về con chung: Anh đồng ý giao hai con chung là Võ Quỳnh Lam, sinh ngày:

19/6/2011 và Võ Quỳnh Chi, sinh ngày: 04/9/2015 cho chị V tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Anh không phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Do bận công việc nên anh không đến Tòa án tham gia giải quyết vụ án, anh có yêu cầu xét xử vắng mặt anh.

Tại phiên tòa, chị V vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn và yêu cầu được trực tiếp nuôi cả hai con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu:

1. Về tố tụng:

Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Nguyên đơn thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

2. Về nội dung:

Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc V về việc xin ly hôn với anh Võ Minh T. Chị V được ly hôn với anh T.

Về con chung: Giao con chung Võ Quỳnh Lam, sinh ngày: 19/6/2011 và Võ Quỳnh Chi, sinh ngày: 04/9/2015 cho chị V được trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận chị V không yêu cầu anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị V, anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Võ Minh T là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng có yêu cầu xin giải quyết và xét xử vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị V và anh T kết hôn trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện G, tỉnh B vào ngày 03/8/2010 nên quan hệ hôn nhân của anh chị được coi là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, chị V cho rằng trong quá trình chung sống thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Chị V nhận thấy không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng được nữa nên chị có yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thông báo các phiên hòa giải với mục đích là hòa giải cho chị V và anh T đoàn tụ nhưng anh T không tham gia. Điều này chứng tỏ anh T không muốn cải thiện tình trạng hôn nhân hiện tại của anh và chị V. Hơn nữa, qua ghi nhận ý kiến của anh T về yêu cầu xin ly hôn của chị V thì anh cũng đồng ý.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Chị V và anh T đều thừa nhận trong quá trình chung sống anh chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Hiện tại anh chị đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau như vợ chồng. Như vậy, tình trạng hôn nhân của chị V và anh T đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị V để giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

[3] Về con chung: Chị V và anh T có 02 con chung là: Võ Quỳnh Lam, sinh ngày: 19/6/2011 và Võ Quỳnh Chi, sinh ngày: 04/9/2015. Hội đồng xét xử xét thấy hiện tại chị V là người trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung, chị V vẫn đảm bảo tốt quyền và lợi ích của con. Đồng thời, cháu Quỳnh Lam đã trên 07 tuổi, Tòa án tiến hành lấy ý kiến và cháu Lam cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ khi cha mẹ ly hôn. Cháu Chi hiện đang còn nhỏ, cần được sự chăm sóc trực tiếp từ mẹ. Mặc khác, anh T cũng đồng ý giao hai con chung cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, để đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống của hai cháu nên cần giao cháu Quỳnh Lam và Quỳnh Chi cho chị V được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình thì sau khi ly hôn “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Tuy nhiên, chị V không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, xét thấy đây là sự tự nguyện của chị V, không trái với quy định pháp luật nên ghi nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị V và anh T khai không có nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về án phí: Chị V phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc V. Chị Nguyễn Thị Ngọc V được ly hôn với anh Võ Minh T.

2. Về con chung: Ghi nhận chị Nguyễn Thị Ngọc V và anh Võ Minh T có 02 con chung là: Võ Quỳnh Lam, sinh ngày: 19/6/2011 và Võ Quỳnh Chi, sinh ngày:

04/9/2015.

Giao cả 02 con chung là các cháu Quỳnh Lam và Quỳnh Chi cho chị V tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Ghi nhận việc chị V không yêu cầu anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Ghi nhận việc chị V và anh T khai anh chị không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Chị Nguyễn Thị Ngọc V phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị V đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0000444 ngày 24 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh B; chị V đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm. Đối với bị đơn vắng mặt tại tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 61/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:61/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;