TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 61/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 26 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án HNGĐ thụ lý số: 362/2020/TLST-HNGĐ ngày 07/10/2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 29/10/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 90/2020/QĐST- HNGĐ ngày 18/11/2020 giữa các đương sự.
- Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị N, sinh năm: 1971 (vắng mặt) Địa chỉ: tổ 19, ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Bị đơn: anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1972 (vắng mặt) Địa chỉ: tổ 9, ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 15/9/2020, các lời khai bổ sung trong hồ sơ thể hiện nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày:
Chị và anh Nguyễn Văn T quen biết nhau trong thời gian 1 tháng thì tiến tới hôn nhân với nhau, đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào ngày 27/10/1993, nhưng không tổ chức đám cưới theo nghi thức truyền thống. Đây đều là hôn nhân lần đầu của cả hai người. Sau khi kết hôn anh chị chung sống với nhau hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn và đã sống ly thân nhau năm 2002 cho đến nay.
Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng theo chị N trình bày: Do năm 1996 anh T có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác, trộm cắp tài sản phải đi tù, năm 2002 sau khi được ra tù thì lại tiếp tục theo gái, không quan tâm đến gia đình, vợ con, không lo lắng làm ăn và bỏ đi về nhà cha mẹ ruột của anh T tại ấp T, xã B sinh sống và không qua lại thăm nom mẹ con chị. Do cuộc sống hôn nhân của chị và anh Tuấn không có hạnh phúc, tình cảm vợ chồng dành cho nhau không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh T.
Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung là Nguyễn Thành T, sinh ngày 11/3/1996 và cháu Nguyễn Đức T, sinh ngày 23/12/2002, hiện tại hai cháu đã trưởng thành và có khả năng lao động.
Về tài sản chung, nợ chung: chị xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Từ khi thụ lý Tòa án đã tống đạt hợp lệ tất cả các văn bản tố tụng cho bị đơn anh Nguyễn Văn T, nhưng anh T vẫn vắng mặt nên không có lời khai trong hồ sơ.
* Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành xác minh thì chị Nguyễn Thị Ngọc L - là em ruột của anh Tuấn cho biết:
Anh T và chị N có thiết lập quan hệ hôn nhân với nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh T và chị N đã xảy ra từ lâu do anh T rượu chè, gái gú. Anh T và chị N đã không còn chung sống với nhau khoảng 18 năm nay.
* Các tài liệu, chứng cứ:
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị N cung cấp để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là: bản tự khai tường trình về nội dung tranh chấp; chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của chị (bản sao chứng thực); giấy khai sinh của cháu Tú và cháu Tự (bản sao); Giấy đăng ký kết hôn (bản chính); Đơn xác nhận (bản chính).
Tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập được gồm: Biên bản xác minh về nơi cứ trú và nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng (bản chính).
* Quan điểm của Viện kiểm sát huyện C: trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà sơ thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký đều làm đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành và thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ theo tố tụng và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, bị đơn không chấp hành và thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ theo tố tụng nên HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp.
Về nội dung: áp dụng Điều 131 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị N và anh T ly hôn; về con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không giải quyết; về tài sản chung và nợ chung: không ai yêu cầu nên không xem xét.
Kiến nghị khắc phục: không
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ pháp luật và tư cách tham gia tố tụng: chị Nguyễn Thị N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn anh Nguyễn Văn T nên đây là vụ án về "Tranh chấp ly hôn” theo khoản 1 Điều 28 của BLTTDS.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Nguyễn Văn T có hộ khẩu thường trú tại: tổ 9, ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết Tòa án nhân dân huyện C.
[3] Về thủ tục tố tụng: nguyên đơn chị Nguyễn Thị N có đơn và yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ tống đạt hợp lệ tất cả các văn bản tố tụng; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng tại phiên tòa hôm nay anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật TTDS Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T và chị Nu là phù hợp.
[4] Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị Nhiễu và anh Nguyễn Văn T đã tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu năm 1993; đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 034/1993 ngày 27/10/1993, đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.
[5] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị N nhận thấy:
Theo trình bày của chị N thì cuộc sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, do từ năm 1996 anh T có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác, rồi trộm cắp tài sản phải đi tù, năm 2002 sau khi được ra tù anh T lại tiếp tục có quan hệ ngoại tình, không quan tâm đến gia đình, vợ con, không lo lắng làm ăn và bỏ về nhà cha mẹ ruột của anh T sinh sống cho đến nay và không qua lại thăm nom mẹ con chị. Do cuộc sống hôn nhân của chị và anh T không có hạnh phúc, tình cảm vợ chồng dành cho nhau không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh T.
Tuy anh Tuấn vắng mặt không có lời khai tại Tòa án, nhưng theo biên bản xác minh của Tòa án thì chị Nguyễn Thị Ngọc L - là em ruột của anh T cho biết: giữa anh Tuấn và chị Nhiễu có xảy ra mâu thuẫn và đã sống ly thân nhau 18 năm nay. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án cũng đã kéo dài thời gian hòa giải cho anh chị nhưng không thành, chị Nhiễu vẫn kiên quyết xin ly hôn vì không còn tình cảm với anh Tuấn. Xét thấy anh chị đã sống ly thân nhau, tình cảm vợ chồng giữa anh chị không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ quy định tại Điều 40 của Luật HN&GĐ năm 1986 chấp nhận cho chị N được ly hôn với anh T.
[6] Về con chung: đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không xem xét.
[7] Về tài sản chung và nợ chung: chị N xác định không có, do anh T vắng mặt không có lời khai nên không xem xét giải quyết. Nếu sau này đương sự có yêu cầu có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.
[8] Về án phí: căn cứ khoản 4 Điều 147 của BLTTDS thì chị N phải chịu án phí sơ thẩm về ly hôn.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 131 của Luật hôn HN và GĐ năm 2014, Điều 40 của Luật HN và GĐ năm 1986;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị N.
- Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.
- Về con chung: đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không xem xét.
- Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét giải quyết
- Về án phí: chị Nguyễn Thị N phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí LHST. Chuyển 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp thành tiền án phí (biên lai số 0002093 ngày 07/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Mỹ. Chị N đã nộp đủ án phí.
Nguyên đơn và bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.
Bản án 61/2020/HNGĐ-ST ngày 26/11/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 61/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Mỹ - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về