Bản án 61/2020/HNGĐ-ST ngày 25/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 61/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 112/2020/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2020/QĐXX - ST ngày 22 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự :

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Đình T - Sinh năm 1995 “ Có mặt” Địa chỉ: Thôn 8, xã Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa

Bị đơn : Chị Lê Thị O - Sinh năm 1997 “ Có mặt” Nơi ĐKHKTT: Thôn 8, xã Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa Nơi ở hiện nay: Phố N, phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Đình T trình bày:

Anh và chị Lê Thị O kết hôn với nhau vào ngày 11 tháng 01 năm 2017 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND Phường Q, Thành phố T. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại thôn 8, xã Q, Thành phố T và cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến tháng 5 năm 2019 phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyễn cải vã, mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình và bạn bè hòa giải nhưng không mang lại kết quả. Sau thời gian chung sống không tìm được tiếng nói chung, từ tháng 5/2019 đến nay chị O đã bỏ về bên nhà ngoại ở, mâu thuẫn vẫn không ngừng xảy ra. Nay anh T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh đề nghị Tòa giải quyết cho anh được ly hôn với chị Lê Thị O.

Về con: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Minh K sinh ngày 12/01/2019, ly hôn anh T đề nghị Tòa án giải quyết giao con cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng, anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng). Tại phiên tòa anh T đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ (Hai triệu đồng), thời gian cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án ra quyết định cho đến khi cháu K thành niên Về tài sản, công nợ: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Lê Thị O trình bày:

Chị và anh T kết hôn với nhau vào năm 2017, thời gian chung sống không hạnh phúc, không thuận hòa, anh T thường xuyên đi chơi bời lêu lổng với bạn bè, bỏ mặc vợ con, mặc dù chị đã khuyên nhủ nhưng anh T vẫn chứng nào tật ấy và đôi khi còn thể hiện tính ngược đãi vợ con. Trước hành vi của anh T như vậy nên chị đã bỏ về nhà ngoại tại Phố T, phường Q, thành phố T sinh sống.

Mặc dù chị O viết bản tự khai cũng như đơn đề nghị nhưng chị O không thể hiện quan điểm về hôn hôn cũng như về nuôi con. Chị O đề nghị Tòa án đưa công nợ chung của vợ chồng vào giải quyết. Chị O đề nghị Tòa án giải thích lý do ly hôn của anh T. Tuy nhiên chị O lại không tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải mặc dù đã nhận thông báo hợp lệ.

Tại phiên tòa, chị O đồng ý ly hôn và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000đ ( Ba triệu đồng), nhưng vì anh T đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ (Hai triệu đồng), chị O đồng ý và chấp nhận theo đề nghị của anh T.

Về tài sản, công nợ: Chị O đề nghị Tòa án đưa công nợ chung của vợ chồng vào giải quyết. Sau khi tiếp nhận yêu cầu của chị O về việc chia tài sản và công nợ, tại thông báo số 17/2020/TB-TA ngày 28/5/2020, Tòa án đã thông báo cho chị O về việc nộp đơn yêu cầu phân chia tài sản, công nợ và chứng cứ kèm theo. Quá thời hạn mà chị O vẫn không nộp đơn và chứng cứ theo thông báo của Tòa án.

Tại phiên tòa, chị O không yêu cầu Tòa án giải quyết về phần tài sản chung và nợ chung của vợ chồng.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Tại biên bản thu thập chứng cứ do địa phương cung cấp thể hiện: Quá trình anh anh T và chị O sinh sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân cụ thể địa phương không nắm được, chỉ thấy anh T đến trình bày về việc vợ chồng mâu thuẫn từ tháng 5/2019 và đã sống ly thân, chị O đã về nhà mẹ đẻ ở. Nay anh T có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

Về con: Anh T và chị O có 01 con chung, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng đề nghị Tòa án căn cứ giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của đương sự, kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định. Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn: Xử cho anh Nguyễn Đình Thái được ly hôn chị Lê Thị O; Giao cháu Nguyễn Minh K cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng, anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ ( Hai triệu đồng); Về tài sản: Các đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Anh Nguyễn Đình T và chị Lê Thị O kết hôn với nhau năm 2017 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2019 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, trong cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng đã sống ly thân, anh T tha thiết xin được ly hôn.

Qua xác minh tại địa phương thể hiện hiện: Trong quá trình anh T và chị O chung sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn và hiện nay anh chị đã sống ly thân.

Xét mâu thuẫn giữa anh T và chị O đã đến mức trầm trọng, đặc biệt tại phiên tòa, chị O cũng xác định vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, không thể hàn gắn được, chị O cũng đồng ý ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh T được ly hôn chị O là phù hợp pháp luật.

[2] Về con: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Minh K sinh ngày 12/01/2019, ly hôn anh T đề nghị Tòa án giải quyết giao con cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng, anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ (Hai triệu đồng), thời gian cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án ra quyết định cho đến khi cháu K thành niên. HĐXX xét thấy: Theo quy định tại khoản 3 điều 81 Luật HN&GĐ quy định: “ Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con ”, cháu K chưa đủ 36 tháng tuổi nên việc giao cháu K cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ là hoàn toàn phù hợp pháp luật, nên được chấp nhận.

[3] Về tài sản và nợ chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai cũng như đơn đề nghị, Chị O đề nghị Tòa án đưa công nợ chung của vợ chồng vào giải quyết. Sau khi tiếp nhận yêu cầu của chị O về việc chia tài sản và công nợ, tại thông báo số 17/2020/TB-TA ngày 28/5/2020, Tòa án đã thông báo cho chị O về việc nộp đơn yêu cầu phân chia tài sản, nhưng hết thời hạn thông báo, chị O không nộp đơn yêu cầu phân chia tài sản và tài liệu chứng cứ kèm theo cho Tòa án.

Tuy nhiên tại phiên tòa, chị O không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản cũng như về nợ chung, xét việc không yêu cầu của chị O là hoàn toàn tự nguyện nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, anh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và án phí cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Đình T được ly hôn chị Lê Thị O.

Về con: Công nhận cháu Nguyễn Minh K sinh ngày 12/01/2019 là con chung của anh T và chị O. Giao cháu Nguyễn Minh K cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng;

Anh Nguyễn Đình T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ (Hai triệu đồng)/tháng; thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 8 năm 2020 cho đến khi cháu K thành niên.

Anh Nguyễn Đình T có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản và công nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Án phí: Anh Nguyễn Đình T phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí cấp dưỡng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh T đã nộp theo biên lai số AA/2018/0000841 ngày 24/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa. Anh T còn phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 61/2020/HNGĐ-ST ngày 25/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:61/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;