Bản án 61/2020/HNGĐ-ST ngày 20/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 61/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 260/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 78/2020/QĐST- HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà VTL, sinh năm 1998; thường trú: Thôn CH, xã QL, huyện QL, tỉnh NA, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông NVT, sinh năm 1994; thường trú: Thôn 11, xã SH, huyện QL, tỉnh NA; tạm trú: Ô 21, TDC 05, khu phố 4, phường AP, thành phố TA, tỉnh BD, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21/02/2020, bản tự khai ngày 04/5/2020 và ngày 08/5/2020, nguyên đơn bà VTL trình bày:

Bà VLT và ông NVT tự nguyện tìm hiểu, tiến đến hôn nhân có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Sơn Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An theo giấy chứng nhận kết hôn số 153 ngày 23/11/2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, ông T không chăm lo cho gia đình thường xuyên cờ bạc, ăn chơi và đánh đập chửi bới bà L. Nay bà VTL xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với ông NVT.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng 01 con chung tên NMN, sinh ngày 22/4/2016. Sau khi ly hôn, bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con do bà hiện đang làm công ty, thu nhập khoảng 10.000.000 đồng/tháng nên bà xác định đủ khả năng nuôi con.

Về tài sản chung; nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông NVT không có văn bản trình bày ý kiến và không tham gia tố tụng.

Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án: Thẩm phán, thư ký được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về xét xử sơ thẩm.

Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.

Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông NVT, có đăng ký tạm trú tại địa chỉ Ô 21, TDC 05, KP4, phường AP, thành phố TA, tỉnh BD nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điều 36; Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn, yêu cầu được nuôi con, nguyên đơn không yêu cầu giải quyết về tài sản chung; nợ chung. Như vậy quan hệ tranh chấp trong vụ án này là ly hôn, tranh chấp nuôi con.

[3] Về việc xét xử vắng mặt: Nguyên đơn bà VTL có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn – ông NVT đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự

[4] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Bà VTL và ông NVT có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Sơn Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An theo giấy chứng nhận kết hôn số 153 ngày 23/11/2016 nên quan hệ hôn nhân của bà L và ông T là hôn nhân hợp pháp.

Bà VTL khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông NVT với lý do: Bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, ông T thường xuyên cờ bạc, ông T không chăm lo cho gia đình thường xuyên cờ bạc, ăn chơi và đánh đập chửi bới bà L.

Quá trình tố tụng Tòa án tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà L và ông T tại nơi cư trú của vợ chồng nhưng địa phương không rõ. Đây là lần thứ 02 bà L nộp đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn. Xét thấy, quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững dựa trên tình cảm của vợ chồng, sống có trách nhiệm, thương yêu, chăm sóc, quan tâm lẫn nhau. Vợ chồng bà L và ông T vì bất đồng quan điểm sống nên cuộc sống có nhiều mâu thuẫn. Từ khi bà L nộp đơn khởi kiện đến nay tình trạng hôn nhân của bà L và ông T vẫn không cải thiện, không ai quan tâm đến ai, mạnh ai nấy sống, ông T đã được tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng nhưng không tham gia tố tụng và không có văn bản trình bày ý kiến nên được xem là tự từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình, do đó có cơ sở xác định tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà L và ông T không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc. Do tình trạng hôn nhân của bà L và ông T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L về việc ly hôn với ông Tuyên.

Về con chung: Bà L và ông T có 01 con chung tên NMN, sinh ngày 22/4/2016. Sau khi ly hôn, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, bà hiện đang làm công ty, thu nhập khoảng 10.000.000 đồng/tháng nên bà xác định đủ khả năng nuôi con mà không không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con. Ông T không có văn bản trình bày ý kiến. Xét thấy, từ khi vợ chồng mâu thuẫn, bà L là người chăm sóc, nuôi dưỡng con. Bà L làm công ty và có thu nhập nên nuôi con tốt, có trách nhiệm với con cái nên con chung phát triển bình thường, khỏe mạnh, học hành đầy đủ. Do vậy, cần tiếp tục giao con cho bà L trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng là đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung nên chấp nhận yêu cầu này của bà L. Bà L không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên ông L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung; nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp [6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Điều 51, Điều 56, Điều 57 và Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án năm 2016.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị Long về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” với ông Nguyễn Văn Tuyên.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà VTL được ly hôn với ông NVT.

- Về con chung: Giao cháu NMN, sinh ngày 22/4/2016 cho bà Vũ Thị Long trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

- Về cấp dưỡng: Ông NVT không phải cấp dưỡng nuôi con Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà VTL phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0046368 ngày 23/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 61/2020/HNGĐ-ST ngày 20/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:61/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;