Bản án 61/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 61/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 151/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phan Thị Thu N, sinh năm 1982; địa chỉ thường trú: Tổ 4, khu phố Tân Bình, phường Tân H, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Trần A, sinh năm 1982; địa chỉ thường trú: Tổ 4, khu phố Tân Bình, phường Tân H, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 19 tháng 5 năm 2020 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phan Thị Thu N trình bày:

Bà Phan Thị Thu N và ông Trần A tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau vào năm 2002. Bà Phan Thị Thu N và ông Trần A đăng ký kết hôn tại UBND xã (nay là phường) Khánh Bình, thị xã T, tỉnh Bình Dương và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 116, quyển số 07, ngày 20-10-2003. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, bà N và ông Anh thường xuyên cãi nhau về vấn đề kinh tế gia đình và ông Anh quen người phụ nữ khác, thường xuyên qua đêm bên ngoài. Vợ chồng và gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải để vợ chồng tiếp tục chung sống và chăm lo cho con nhưng không có kết quả. Vì con bà N đã nhiều năm nhẫn nhịn nhưng ông Anh vẫn không thay đổi. Đến khoảng đầu năm 2019, vợ chồng bà N và ông Anh đã sống ly thân. Nay, nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên bà Phan Thị Thu N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Trần A, yêu cầu được trực tiếp nuôi các con chung tên Trần Quốc T sinh ngày 04-5-2004 và Trần Quốc T1 sinh ngày 11-3-2008 và không yêu cầu ông Trần A phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con chung với bị đơn ông Trần A.

Bị đơn ông Trần A vắng mặt.

Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân thị xã T thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đảm bảo thời hạn chuẩn bị xét xử. Quá trình thu thập chứng cứ, hòa giải, tiếp cận công khai chứng cứ và tống đạt văn bản tố tụng được Tòa án thực hiện đúng quy định. Tại phiên tòa, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Bà Phan Thị Thu N và ông Trần A tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Cuộc sống hôn nhân của bà Phan Thị Thu N và ông Trần A đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, bà Phan Thị Thu N đã cố gắng hòa giải cùng ông Trần A nhưng không thành, nay bà N kiên quyết ly hôn. Hiện nay, các con chung tên Trần Quốc T sinh ngày 04-5-2004 và Trần Quốc T1 sinh ngày 11-3-2008 đang sống cùng với bà Phan Thị Thu N, được chăm sóc, giáo dục tốt và các con chung có bản tự khai nộp cho Tòa án ghi rõ nguyện vọng mong muốn được sống cùng bà Phan Thị Thu N. Do đó, bà Phan Thị Thu N yêu cầu được trực tiếp nuôi các con chung và không yêu cầu ông Trần A cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, xem xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Xét đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị Thu N yêu cầu ly hôn với ông Trần A là quan hệ pháp luật tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn ông Trần A có địa chỉ thường trú tại tổ 4, khu phố tân Bình, phường Tân H, thị xã T, tỉnh Bình Dương nên căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Bị đơn ông Trần A đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo về quyền và nghĩa vụ của các đương sự khi tham gia tố tụng, quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ và triệu tập ông Anh tham gia phiên hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa nhưng ông Anh vẫn vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án mà không có lý do chính đáng, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Thu N và ông Trần A tự nguyện tìm hiểu, chung sống, có đăng ký kết hôn và được UBND xã (nay là phường) Khánh Bình, thị xã T, tỉnh Bình Dương và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 116, quyển số 07, ngày 20-10-2003 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, cãi vã do bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn về vấn đề kinh tế gia đình, ông Anh không chăm sóc vợ con, ông Anh thường xuyên mắng bà N, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của bà N, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc nhau, vợ chồng không thể tự hòa giải, thỏa thuận được, bà N kiên quyết ly hôn với ông Anh. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ cho bà N và ông Anh nhưng ông Anh không đến Tòa án thể hiện việc không muốn hòa giải, đoàn tụ với bà N. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà N và ông Anh đã trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà N yêu cầu ly hôn với ông Anh là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có hai con chung tên Trần Quốc T sinh ngày 04-5-2004 và Trần Quốc T1 sinh ngày 11-3-2008. Hiện tại, các con chung đang sống với bà N, Trần Quốc T sinh ngày 04-5-2004 và Trần Quốc T1 sinh ngày 11-3-2008 và không yêu cầu ông Trần A phải cấp dưỡng nuôi con chung có bản tự khai ghi rõ nguyện vọng được sống cùng mẹ là bà Phan Thị Thu N, điều kiện chăm sóc, giáo dục của các con chung được đảm bảo. Do đó, bà Phan Thị Thu N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung và tự nguyện không yêu cầu ông Anh cấp dưỡng nuôi con là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[6] Về án phí: Bà Phan Thị Thu N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, sự;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điều 28, 35, 39, 238, 266, 217, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân - Căn cứ: Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Thu N đối với ông Trần A về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con như sau:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Thu N được ly hôn với ông Trần A.

2. Về con chung: Giao các con chung tên Trần Quốc T sinh ngày 04-5-2004 và Trần Quốc T1 sinh ngày 11-3-2008 cho bà Phan Thị Thu N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Ông Trần A không cấp dưỡng cho con chung.

Bà Phan Thị Thu N và ông Trần A đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng quyền thăm nom con để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Phan Thị Thu N phải nộp 300.000 đồng, được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số AA/2016/0038030 ngày 26-5-2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 61/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:61/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;