Bản án 61/2019/HS-ST ngày 30/08/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 61/2019/HS-ST NGÀY 30/08/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 8 năm 2019, tại Nhà văn hóa Khu phố 5, Phường 3, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2019, đối với bị cáo:

Đng Anh C (Tên gọi khác: C M), sinh ngày 28 tháng 3 năm 1988, tại Quảng Trị; Nơi cư trú: Khu phố B, phường Đông L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Trung D, sinh năm 1946 và bà Lê Thị Anh L, sinh năm 1950; Vợ là chị Lê Thị Mỹ N (đã ly hôn), con: Chưa có.

Tiền án: Không Tiền sự:

- Ngày 20 tháng 12 năm 2017, Đặng Anh C bị Công an phường Đông Lương, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xử phạt 2.500.000 đồng, về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe người khác” (Quyết định số: 264/QĐ-XPVPHC);

- Ngày 21 tháng 12 năm 2017, Đặng Anh C bị Công an phường Đông Lương, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xử phạt 3.000.000 đồng, về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe người khác” (Quyết định số: 266/QĐ-XPVPHC);

Nhân thân:

- Ngày 07 tháng 7 năm 2009, Đặng Anh C bị Tòa án nhân dân thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà), tỉnh Quảng Trị, xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, về tội: “Cố ý làm hư hỏng tài sản”;

- Ngày 14 tháng 9 năm 2018, Đặng Anh C, bị Công an phường Đông Lương, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (Quyết định số: 54/QĐ-XPVPHC). C chưa chấp hành.

- Ngày 23 tháng 10 năm 2018, Đặng Anh C, bị công an thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xử phạt 1.500.000 đồng, về hành vi “Sử dụng trái phép tài sản của người khác” (Quyết định số: 185/QĐ-XPVPHC). C chưa chấp hành.

Bị cáo Đặng Anh C bị bắt tạm giam kể từ ngày 05 tháng 6 năm 2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Anh Trần Đức T, sinh năm: 1982; Địa chỉ: Khu phố B, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Phạm Lê L, sinh năm: 1980; Địa chỉ: Khu phố B, Phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

* Người làm chứng:

- Anh Dương Bảo T, sinh năm: 1988; Địa chỉ: Khu phố B, phường Đông L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

- Anh Mai Thanh C, sinh năm: 1989; Địa chỉ: Khu phố B, phường Đông L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ ngày 27 tháng 7 năm 2018, anh Trần Đức T, Dương Bảo T (trú tại: Khu phố B, phường Đông L, thành phố Đ) và anh Mai Thanh C (trú tại: Khu phố B, phường Đông L, thành phố Đ) cùng nhau ăn uống tại nhà anh Chiến. Lúc này Đặng Anh C đi ngang qua thấy mọi người đang ngồi ăn nên cùng vào tham gia. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, C nảy sinh ý định mượn xe mô tô hiệu Nouvo, biển kiểm soát: 74P1 – 003.92 của anh T đem cầm cố lấy tiền mua ma túy sử dụng nên C nói với anh T: “Anh có xe máy không cho em mượn đi chở bạn một tý?”. Mặc dù không quen biết với C nhưng vì nghĩ C là bạn của anh C nên anh T đồng ý. Sau khi mượn được xe, C tiếp tục nảy sinh ý định mượn điện thoại di động của anh T đem đi cầm cố nên C nói “Cho em mượn điện thoại gọi cho bạn rồi trả lại sau”, anh T đồng ý và đưa điện thoại hiệu Samsung A7, màu đen cho C. Có được tài sản, C tìm gặp Phạm Thị Thúy N(chưa rõ nhân thân, lai lịch) và đưa xe cho N. N đến gặp anh Phạm Lê L (ở Khu phố B, Phường H, thành phố Đ) cầm xe với số tiền 800.000 đồng. Sau đó C gặp người thanh niên tên “C” (chưa rõ nhân thân, lai lịch), cầm chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung A7 với số tiền 1.000.000 đồng. Số tiền có được, Đặng Anh C mua ma túy để sử dụng.

Tại bản kết luận định giá số: 102/KLĐGTS ngày 11 tháng 9 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xác định: Giá trị còn lại của Xe mô tô biển kiểm soát: 74P1 -003.92 là 20.820.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A7, màu đen là 3.196.000 đồng. Tổng giá trị của 02 tài sản trên là: 24.016.000 đồng.

Bản cáo trạng số: 64/CT-VKSĐH Đông Hà, ngày 31 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố Đặng Anh C về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa:

Đi diện Viện kiểm sát: Giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Đặng Anh C phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Đặng Anh C từ 21 đến 24 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hoạt động tố tụng: Quá trình điều tra-truy tố, Cơ quan T hành tố tụng- người T hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra, truy tố; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Trường Linh không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với Cơ quan T hành tố tụng-người T hành tố tụng.

[2] Nội dung vụ án:

Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Anh C khai nhận: Bị cáo nghiện ma túy nên rất cần tiền để mua ma túy. Vì vậy, bị cáo nảy sinh ý thức “Chiếm đoạt tài sản” của anh Trần Đức T nhằm bán lấy tiền mua ma túy để sử dụng ngay sau khi phát hiện anh T đang sử dụng xe mô tô và điện thoại di động; Để thực hiện ý định chiếm đoạt được tài sản, C đã nói dối với anh T “Anh có xe máy không cho em mượn đi chở bn một tí”. ởng lời nói dối của C là thật, anh T giao xe mô tô của mình cho C mượn sử dụng; Mượn được xe, C lại tiếp tục nói dối với anh T “Anh cho em mượn điện thoại gọi bạn rồi trả lại sau”. Nghĩ C thật sự cần điện thoại để liên lạc, anh T giao điện thoại của mình cho C mượn sử dụng; Có được điện thoại và xe mô tô, C điều khiển xe đến gặp Phạm Thị Thúy N để N đưa xe đi cầm với số tiền 800.000 đồng, chiếc điện thoại C đi cầm được 1.000.000 đồng; Có tiền, C mua ma túy rồi cùng với N sử dụng. Lời khai nhận, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố đồng thời phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đó là: Biên bản thu giữ vật chứng, lời khai của bị hại-Người làm chứng- Người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan nên có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 27 tháng 7 năm 2018, tại nhà anh Mai Thanh C; Địa chỉ: Khu phố B, phường Đông L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Với ý thức muốn “Chiếm đoạt tài sản”, Đặng Anh C đã nói dối với anh Trần Đức T, anh T tưởng lời nói dối của C là thật nên đã giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho C mượn; có được tài sản, C đã chiếm đoạt bằng cách đưa đi cầm cố- lấy tiền mua ma túy. Tài sản C chiếm đoạt có giá trị: 24.016.000 đồng được xác định tại Bản kết luận định giá số: 102/KLĐGTA ngày 11 tháng 9 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự nên có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi nêu trên của Đặng Anh C đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an trên địa bàn thành phố Đông Hà nên cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng - ngừa và đẩy lùi loại tội phạm có chiều hướng gia tăng này trên địa bàn Thành phố. Tuy Nên, khi lượng hình Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình; Gia đình bị cáo có công với nước, cụ thể: Bố bị cáo là thương binh và được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự được quy định tại các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự phải áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và tội phạm mà C gây ra trong vụ án này, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể: Có 02 tiền sự; đã bị kết án; Nều lần bị xử phạt vi phạm hành chính trong đó có lần bị xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” nên C không có khả năng tự cải tạo và việc không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với C là gây nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với C là có căn cứ và cần thiết.

Thời gian bị cáo bị tạm giam kể từ ngày 05 tháng 6 năm 2019 đến nay, được trừ vào thời hạn chấp hành án.

Đi với người phụ nữ tên “N” và nam thanh niên tên “C”: Cơ quan điều tra đã áp dụng Nều biện pháp nghiệp vụ nhưng chưa xác định được danh tính cụ thể nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về hành vi nhận cầm cố tài sản do Đặng Anh C phạm tội mà có của anh Phạm Lê L, Hi đồng xét xử xét thấy: Anh L không biết chiếc xe mô tô nhận cầm cố là do C phạm tội mà có. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà không xem xét trách nhiệm hình sự đối với hành vi nhận cầm cố tài sản do phạm tội mà có đối với anh Phạm Lê L là có cơ sở.

Về trách Nệm dân sự: Anh Trần Đức T và anh Phạm Lê L không yêu cầu Đặng Anh C bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng vụ án: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 74 P1-003.92 thuộc quyền sở hữu của anh Trần Đức T, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh T là có căn cứ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp lut.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Anh C (Tên gọi khác: C M), phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

1. Về trách Nệm hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 174; các điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt, Đặng Anh C 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 05 tháng 6 năm 2019.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Buộc bị cáo Đặng Anh C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 61/2019/HS-ST ngày 30/08/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:61/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;