Bản án 61/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 61/2019/HS-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 62/2019/TLST-HS, ngày 19 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2019/QĐXXST-HS, ngày 04 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Đỗ Xuân C, sinh năm 1985; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Thôn 04, xã Q, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái: Không; Con ông Đỗ Hữu X, sinh năm 1955 và bà Phạm Thị Y, sinh năm 1961; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không.

Tiền sự: Có 01 tiền sự. Ngày 10/5/2019 Công an xã Đại Minh, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái xử phạt vi phạm hành chính, mức phạt 1.000.000đ về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 13/5/2019 C đã nộp xong khoản tiền phạt trên.

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” tại xã Q, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Có mặt

- Bị hại: Ông Phan Văn H, sinh năm 1960 Nơi cư trú: Thôn 1, xã Q, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Văn T1, sinh năm 1980 Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt

2. Chị Nguyễn Thị T2, sinh năm 1975 Nơi cư trú: Thôn C, xã Đ, huyện Y, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt

- Người làm chứng: Ông Trần Xuân T3, sinh năm 1952 Nơi cư trú: Thôn 03, xã Q, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 06 giờ sáng ngày 15/5/2019, C đang ở nhà mình thì Trần Văn T1, sinh năm 1980 ở thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Yên Bái điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead biển số 19S1-65xx của chị Nguyễn Thị T2, sinh năm 1975 ở cùng xã đến. Cả hai rủ nhau đi lên thị trấn Tà, huyện Y, tỉnh Yên Bái tìm mua ma tuý về sử dụng. Do không có đủ tiền để mua ma tuý nên khi đi qua nhà ông Phan Văn H, sinh năm 1960 ở cùng thôn, thấy nhà ông H không có người ở nhà nên C đã nảy sinh ý định vào nhà ông H bắt trộm gà để bán lấy tiền. C nói ý định này với T1, T1 đồng ý, rồi dừng lại cho C xuống xe còn T1 quay xe lại, tìm và nhặt 01 bao tải xác rắn màu trắng kích thước dài 103cm, rộng 53cm bị thủng một số lỗ đã qua sử dụng ở ven đường đưa cho C rồi đứng ở ngoài canh gác. C cầm chiếc bao tải này đi theo đường đồi ra sau nhà ông H, đi vào khu vực chuồng gà, bắt 02 con gà mái lông màu vàng xám gồm 01 con nặng 1,8kg, 01 con nặng 2,4kg, cho vào bao tải rồi đem ra ngoài. Khi ra đến phía sân trước nhà ông H, C nhìn thấy ông Trần Xuân T3, sinh năm 1952 ở thôn 3, xã Q đi về phía nhà ông H nên bỏ tải đựng gà ở góc vườn rồi quay lại phía chuồng gà để trốn. Cùng lúc này, ông H quay về nhà, nhìn thấy tải đựng gà nên đi ra sau nhà kiểm tra, phát hiện và giữ C lại đồng thời báo cáo Công an xã Quế Lâm đến giải quyết.

Công an xã Quế Lâm đã tiến hành lập biên bản sự việc và tạm giữ đối với 01 chiếc bao tải cùng 02 con gà trên, bàn giao cho Cơ quan điều tra - Công an huyện Đoan Hùng để giải quyết theo thẩm quyền. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Đoan Hùng đã trả lại 02 con gà cho ông Phan Văn H là chủ sở hữu.

Cơ quan điều tra đã ra Yêu cầu định giá đối với tài sản do C trộm cắp. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 58 ngày 23/5/2019, Hội đồng định giá tài sản huyện Đoan Hùng kết luận: 02 con gà mái bị trộm cắp có tổng khối lượng 4,2kg trị giá là 323.000đ (Ba trăm hai mươi ba nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số: 60/CT-VKS ngày 17/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ đã truy tố bị cáo Đỗ Xuân C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đỗ Xuân C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Xuân C từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án phạt tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không yêu cầu nên không phải giải quyết.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự, khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Xác nhận Cơ quan điều tra Công an huyện Đoan Hùng đã trả lại cho ông Phan Văn H 02 con gà có tổng khối lượng 4,2kg, trả cho chị Nguyễn Thị T2 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead, biển kiểm soát 19S1 – 65xx. Tịch thu để tiêu hủy 01 tải xác rắn màu trắng, gấp hình chữ nhật, kích thước dài 103cm, rộng 53cm, trên tải có một số lỗ thủng đã qua sử dụng.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000đ.

Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Xuân C không tranh luận gì, thừa nhận và ăn năn, hối hận với hành vi phạm tội của bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về căn cứ buộc tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ được và các tài liệu khác có trong hồ sơ, nên có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 07 giờ sáng ngày 15/5/2019, Đỗ Xuân C đã vào chuồng gà của nhà ông Phan Văn H, ở thôn 4, xã Q, huyện Đ, trộm cắp 02 con gà mái có tổng khối lượng là 4,2kg trị giá 323.000đ (Ba trăm hai mươi ba nghìn đồng). Tuy hành vi trộm cắp tài sản của Đỗ Xuân C dưới 2.000.000đ, nhưng bị cáo là người đã có tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản, nên đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định:

Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

a). Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm”

[3]. Về tính chất của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo tuy thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng đã xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất ổn định tình hình trị an và lo lắng cho người dân. Do vậy cần phải có hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung tội phạm.

[4]. Về nhân thân: Bị cáo tuy chưa có tiền án, phạm tội lần đầu, nhưng là người nghiện ma túy nhiều năm, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.

[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, trên cơ sở phục vụ công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm và tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm trở thành người công dân có ích cho xã hội, nên cần xử phạt bị cáo hình phạt ở mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có chức vụ và không có tài sản có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: 02 con gà mái có tổng khối lượng 4,2kg mà bị cáo trộm cắp của ông H, đến nay ông H đã lấy lại và không yêu cầu bồi thường gì nên không phải giải quyết.

[7]. Về xử lý vật chứng: Các tài sản Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đoan Hùng đã trả cho ông H và chị T2, cần xác nhận. Chiếc bao tải xác rắn màu trắng đã cũ do không còn giá trị sử dụng nên sẽ tịch thu để tiêu hủy.

[8]. Đối với Trần Văn T1 là người tham gia trộm cắp cùng Đỗ Xuân C với vai trò đồng phạm. Do giá trị tài sản bị trộm cắp dưới 2.000.000đ, bản thân T1 đến thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản không có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện Đoan Hùng không đề cập xử lý hình sự mà chuyển xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

[9]. Đối với chị Nguyễn Thị T2 là người cho T1 mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead biển số 19S1-65xx nhưng không biết việc T1 điều khiển chiếc xe này đi trộm cắp tài sản nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện Đoan Hùng không đề cập xử lý là đúng quy định.

[10]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự:

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Xuân C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo Đỗ Xuân C 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án phạt tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không phải giải quyết.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự, điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đoan Hùng đã trả lại cho ông Phan Văn H 02 (Hai) con gà mái có tổng khối lượng 4,2kg; Trả cho chị Nguyễn Thị T2 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead, biển kiểm soát 19S1-65xx.

- Tịch thu để tiêu hủy 01 tải xác rắn màu trắng, gấp hình chữ nhật, kích thước dài 103cm, rộng 53cm, trên tải có một số lỗ thủng đã qua sử dụng.

(Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đoan Hùng đang quản lý).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Đỗ Xuân C phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 61/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:61/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đoan Hùng - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;