TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 61/2018/HS-ST NGÀY 26/10/2018 TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 26 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 56/2018/TLST- HS ngày 25 tháng 9 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2018/QĐXXHS-ST ngày 04 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:
Trần Văn S (tên gọi khác không), sinh ngày 20/02/1975; nơi sinh và cư trú tại: Thôn P, xã T, huyện M, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn N và bà Phạm Thị Q; có vợ là chị Lỗ Thị Đ và 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại (có mặt).
- Bị hại:
Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1960 (đã chết) Nơi cư trú: Thôn P, xã T, huyện M, Thành Phố Hà Nội.
- Người đại diện hợp pháp của bị hại:
1/ Bà Lỗ Thị L, sinh năm 1960;
2/ Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1983;
3/ Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1985;
4/ Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1995.
Người đại diện theo ủy quyền của bà L, anh B và anh C là anh Nguyễn Văn H (vắng mặt).
Đều cư trú tại: Thôn P, xã T, huyện M, thành phố Hà Nội
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23h40 phút ngày 26/3/2018, Trần Văn S không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định, điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Airblade BKS: 29Z1 - 327.48, dung tích xi lanh 110cm3, chở anh đồng hao là ông Nguyễn Văn A đi trên đường theo hướng từ xã N, huyện Y đi xã P, huyện B. Đến vị trí cuối đoạn đường thuộc địa phận thôn Y, xã V, huyện Y, do không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ và điều khiển xe mô tô trong tình trạng nồng độ cồn trong máu vượt quá mức cho phép nên đã đâm vào cây hoa sữa ở lề đường bên phải theo chiều đi của S. Hậu quả: Ông A bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa khu vực Phúc Yên sau đó đã tử vong, S bị thương tích, xe mô tô hư hỏng.
Sau khi nhận được trình báo, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Yên Lạc đã tiến hành khám nghiệm hiện trường theo Luật định. Cơ quan điều tra đã tạm giữ của Trần Văn S 01 xe môtô BKS: 29Z1 - 327.48.
Tại Văn bản số: 67/TT ngày 27/3/2018 của Trung tâm pháp y kết luận: Ông A bị chấn thương sọ não nặng không hồi phục. Gãy kín ngành lên xương hàm dưới bên trái dẫn đến tử vong.
Tại Văn bản số: 412/KLGĐ ngày 30/3/2018 Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Nồng độ cồn (Ethanol) trong máu của tử thi Nguyễn Văn A là 173,544mg/100ml. Ngày 17/4/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Yên Lạc nhận được trích sao bệnh án số: 1598/18/KHTH của Bệnh viện H đối với Trần Văn S, xác định: Nồng độ (Ethanol) trong máu là 128,1 mg/100ml máu. Tại Văn bản số: 219/TgT ngày 07/06/2018 Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Tỉ lệ tổn thương cơ thể của Trần Văn S ở thời điểm giám định là 67%.
Về vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô BKS: 29Z1- 327.48 và 01 đăng ký xe máy của bị cáo Trần Văn S.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, truy tố bị cáo Trần Văn S và gia đình đã thường xuyên đến thăm hỏi, động viên và tự nguyện bồi thường cho gia đình nạn nhân 15.000.000đ. Đại diện gia đình bị hại từ chối nhận số tiền trên và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì, đồng thời có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho Trần Văn S.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.
Tại Cáo trạng số: 57/CT- VKS ngày 25/9/2018, Viện kiểm sát nhân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Trần Văn S về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu lời luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trần Văn S. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 52, khoản 1,2 Điều 54 và khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn S từ 02 năm 09 tháng tù đến 03 năm tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 05 năm.
Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Khoảng 23h40 phút ngày 26/3/2018, Trần Văn S không có Giấy phép lái xemô tô theo quy định, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS: 29Z1 - 327.48 trong tình trạng nồng độ cồn trong máu vượt quá mức cho phép chở ông Nguyễn Văn A trên huyện lộ hướng từ xã N đi xã P. Đến địa phận thôn Y, xã V, huyện Y, do không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ, điều khiển xe trong tình trạng nồng độ cồn trong máu vượt quá mức độ cho phép nên đã đâm vào cây hoa sữa ở lề đường bên phải theo chiều đi của mình. Hậu quả ông A tử vong.
[2]. Xét lời khai của bị cáo Trần Văn S phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi và lời khai của những người tham gia tố tụng khác. Do vậy, hành vi của bị cáo Trần Văn S đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 điều 260 Bộ luật Hình sự.
Điểm a, b khoản 2 điều 260 Bộ luật Hình sự quy định:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a, Không có giấy phép lái xe theo quy định;
b, Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu.. có nồng độ cồn vượt quá mức quy định…."
[3]. Xét tính chất vụ án rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến an toàn và trật tự công cộng, gây thiệt hại đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ. Khi bị cáo điều khiển xe mô tô mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu (128,1 miligam/100 mililít máu); bị cáo khi điều khiển mô tô không có giấy phép lái xe theo quy định; không đi đúng phần đường quy định và không tuân thủ quy định về tốc độ xe chạy trên đường. Vi phạm quy định khoản 8, 9 Điều 8, khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ.
Khoản 8, 9 Điều 8 Luật giao thông đường bộ quy định:
“8… Điều khiển xe môtô… mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở.
9. Điều khiển xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy định”. Khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ quy định:
“1. Người tham gia giao thông phải đi đúng phần đường quy định ..”
Khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ quy định về tốc độ xe và khoảng cách giữa các xe
“1. Người lái xe phải tuân thủ quy định về tốc độ xe chạy trên đường …”
Hậu quả ông Nguyễn Văn A chết. Trước tình hình tội phạm về an toàn giao thông đang có chiều hướng gia tăng gây ra nhiều hậu quả xấu cho xã hội, gây hoang mang, lo lắng cho người khác khi tham gia giao thông. Do vậy, hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn S cần được xử mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, hậu quả xảy ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo Trần Văn S là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo và tỏ ra thực sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo S có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, bị cáo và gia đình đã tự nguyện thăm hỏi, bồi thường cho gia đình của người bị hại số tiền là 15.000.000đ nhưng do bị cáo và bị hại cáo quan hệ là anh em đồng hao nên gia đình bị hại không nhận khoản tiền này và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo, Bố bị S được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, bản thân bị cáo cũng bị thương tích 67%. Do vậy, bị cáo Trần Văn S được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 5 Bộ luật Hình sự. Xét thấy chỉ cần cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo Trần Văn S trở thành người có ý thức chấp hành pháp luật.
[4]. Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật Hình sự quy định “ Người phạm tội còn có thể bị ... cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Xét thấy, bị cáo Trần Văn S làm nghề tự do nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.
[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Trần Văn S và gia đình đã tự nguyện bồi thường cho đại diện hợp pháp của người bị hại số tiền 15.000.000đ nhưng do bị cáo và bị hại có quan hệ là anh em đồng hao nên gia đình bị hại không nhận tiền và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Do vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[6]. Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Trả lại cho bị cáo Trần Văn S 01 xe mô tô BKS: 29Z1- 327.48 và 01 đăng ký xe máy mang tên Trần Văn S.
[7]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Yên Lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[7]. Về án phí: Bị cáo Trần Văn S phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn S phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
1/ Áp dụng: Điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn S 03 (ba) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Trần Văn S cho Uỷ ban nhân dân xã Tự Lập, huyện Mê C, Thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo Trần Văn S thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015.
2/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Trả lại cho bị cáo Trần Văn S 01 xe mô tô BKS: 29Z1- 327.48 và 01 đăng ký xe máy mang tên Trần Văn S..
3/ Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc niêm yết./.
Bản án 61/2018/HS-ST ngày 26/10/2018 tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 61/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/10/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về