Bản án 61/2018/HS-ST ngày 15/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 61/2018/HS-ST NGÀY 15/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 05 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 61/2018/TLST-HS ngày 20/04/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2018/QĐXXST-HS ngày 02/05/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1974 tại Hà Nam; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã L, huyện B, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị V; có vợ là Nguyễn Thị L, sinh năm 1974 và 02 con, lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 12/5/1997 bị TAND huyện B, tỉnh Hà Nam xử phạt 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, ngày 30/03/1998 bị TAND huyện B, tỉnh Hà Nam xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; bị bắt, tạm giữ ngày 04/02/2018, tạm giam ngày 07/02/2018; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1989; trú tại: Tiểu khu B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Lê Đình T, sinh năm 1962; trú tại: Tổ 10, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 04/02/2018, Nguyễn Văn H điều khiển xe môtô biển kiểm soát 90H4-73… đi từ nhà đến thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Đến khu vực tổ 1, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, H gặp một thanh niên H không biết rõ về nhân thân, địa chỉ, nói với người này: “Em lấy hộ anh một quả hai trăm” (ý H nhờ người thanh niên mua hộ hai 200.000 đồng ma túy) và lấy ra 200.000 đồng đưa cho người thanh niên, người này cầm tiền của H đi một lúc sau quay lại đưa cho H 02 gói giấy bạc màu trắng rồi bỏ đi. H cầm 02 gói ma túy ở tay phải rồi điều khiển xe môtô đi tìm nơi sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý phát hiện thấy nghi vấn nên yêu cầu dừng lại kiểm tra. Tại chỗ, H tự giao nộp cho lực lượng Công an 02 gói giấy bạc màu trắng, khai nhận đó là ma túy vừa mua cất dấu mục đích để sử dụng.

Vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn H gồm: 02 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 xe môtô nhãn hiệu HONDA, BKS: 90H4-73… và 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen.

Tại bản Kết luận giám định số 34/PC54-MT  ngày 07/02/2018,  Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,161 gam, loại Heroine. Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 20 Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ”.

Bản cáo trạng số 69/CT-VKS-PL ngày 18/04/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn H và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015:

- Xử phạt Nguyễn Văn H từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp chứng cứ khác của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 04/02/2018, tại khu vực tổ 1, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Văn H bị lực lượng Công an phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý phát hiện, bắt giữ quả tang khi đang tàng trữ trái phép 0,161 gam Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, bị xử phạt tù về các tội xâm phạm quyền sở hữu (đã được xóa án tích), bản thân là người nghiện ma túy.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có người thân (ông ngoại) là người có công với cánh mạng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến nên sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ pháp luật quy định.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện, nhân thân bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân là lao động tự do, nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung(phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Đối với người thanh niên H nhờ mua ma túy, do Cơ quan điều tra không xác định được đặc điểm nhân thân, địa chỉ của người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

+ Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, BKS: 90H4-73…, qua xác minh đã làm rõ đây là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị A, trú tại tiểu khu B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Hà Nam, do chị A không biết bị cáo mượn xe đi mua ma túy để sử dụng nên Cơ quan điều tra đã quyết định trả lại tài sản này cho chủ sở hữu hợp pháp, vì vậy không đặt ra xem xét, giải quyết.

+ Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA thu giữ của bị cáo là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến vụ án nay sẽ trả lại cho bị cáo.

+ Đối với toàn bộ số Heroine cùng bao gói sẽ tịch thu, tiêu hủy. [8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/02/2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, số IMEI: 357382/04/52435313;

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01” số: 34/PC54-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam;

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 19/04/2018.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Văn H nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 61/2018/HS-ST ngày 15/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;