TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 61/2018/HS-ST NGÀY 14/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố LạngSơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:63/2018/TLST-HS ngày 09 tháng 04 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2018/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:
Kiều Đăng H, sinh ngày 27/7/1967 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩuthường trú: Số 09/5, đường L, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; Chỗ ở: Số19C, đường N, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 4/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Kiều Đăng T (đã chết) và bà Nguyễn Thị N (đã chết); có vợ và 02 con; tiền án: Có 03 tiền án: Tại bản án số 78 ngày 27/12/1994, Tòa án nhân dân thị xã Lạng Sơn (nay là thành phố Lạng Sơn) xử phạt 06 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích; tại Bản án số 42 ngày 10/4/1996 Tòa án nhân dân thị xã Lạng Sơn (nay là thành phố Lạng Sơn) xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán và Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; tại Bản án số 158 ngày 29/12/2008 Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xử phạt 12 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm nguy hiểm; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/01/2018 đến nay, có mặt.
- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn T1, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 11 giờ ngày 10/01/2018, tổ công tác Công an phường C và Công an thành phố Lạng Sơn làm nhiệm vụ tại ngã ba đường N giao với đường T, phường C, thành phố L phát hiện bắt quả tang Kiều Đăng H có hành vi tàng trữ 01 gói giấy nhỏ, bên trong có chứa chất bột màu trắng.
Tại kết luận giám định số 69/KL-PC54 ngày 13/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong 01 gói giấy thu giữ của Kiều Đăng H là chất ma túy Heroine có khối lượng 0,166 gam.
Tại bản cáo trạng số 64/KSĐT-MT ngày 09 tháng 4 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Kiều Đăng H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, bị cáo Kiều Đăng H khai: Khoảng 10 giờ, ngày 10/01/2018, bị cáo gọi điện thoại cho người tên là P để đòi tiền thuê nhà nhưng P nói không có tiền, đề nghị được trả bằng ma túy và hẹn Kiều Đăng H đến ngã ba đường T – N để nhận ma túy. Kiều Đăng H đồng ý và đi đến điểm hẹn, tại đây P đưa cho bị cáo 01 vỏ bao thuốc lá 555 bên trong có 01 gói ma túy, Kiều Đăng H nhận gói ma túy của P đưa rồi đi tìm nơi để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.
Quá trình điều tra, người chứng kiến ông Nguyễn Văn T1 khai: Ngày 10/01/2018, ông được chứng kiến lực lượng Công an thành phố Lạng Sơn tiến hành kiểm tra đối với Kiều Đăng H, phát hiện và thu giữ 01 gói chất bột màu trắng để trong vỏ bao thuốc lá hiệu 555, Kiều Đăng H khai đó là ma túy heroine, bị cáo đang đi tìm nơi để sử dụng thì bị bắt.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Kiều Đăng H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Kiều Đăng H từ 05 (năm) đến 06 (sáu) năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng. Về vật chứng, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá 555.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo hối hận về hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng đã thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại đối với quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.
[2] Trên cơ sở lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai người chứng kiến và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ để khẳng định: Ngày 11/01/2018, Kiều Đăng H đã có hành vi tàng trữ 0,166 gam ma túy Heroine. Trước đó, bị cáo có 03 tiền án vào các năm 1994; 1996 và ngày 29/12/2008 tại Bản án số 158 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xử phạt 12 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Các tiền án trên chưa được xóa án tích, do đó lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm nguy hiểm. Với hành vi trên, việc truytố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước.
[4] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã được pháp luật giáo dục, cải tạo nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân, nay lại tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo không có.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có việc làm, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Xét lời luận tội và mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Đối với nam thanh niên tên P đưa ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết đầy đủ họ tên và địa chỉ, Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để điều tra xử lý.
[9] Về vật chứng: đối với 01 phong bì đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá 555 là vật cấm lưu hành và là vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.
[10] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Kiều Đăng H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Xử phạt bị cáo Kiều Đăng H 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 10/01/2018.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Kiều Đăng H.
3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá 555.
(Vật chứng trên hiện được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/4/2018).
4. Về án phí: Buộc bị cáo Kiều Đăng H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.
5. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 61/2018/HS-ST ngày 14/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 61/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/05/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về