TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 61 /2017/ HSST NGÀY 28/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số: 62/2017/HSST ngày 10 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:
Lò Văn K - Tên gọi khác: Không.
Sinh năm 1998 tại huyện C, tỉnh Nghệ An.
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản M, xã N, huyện C, tỉnh Nghệ An.
Trình độ văn hóa: Lớp 6 - Nghề nghiệp: Trồng trọt.
Dân tộc: Thái - Tôn giáo: Không - Quốc tịch: Việt nam.
Con ông Lò Văn C và bà Hoàng Thị Y.
Vợ; con: Không.
Tiền án; tiền sự: Không.
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/9/2017.
Có mặt tại phiên tòa.
NHẬN THẤY
Bị cáo Lò Văn K bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Lò Văn K là người nghiện chất ma túy, khoảng 09 giờ ngày 11/9/2017 K đi xe khách lên huyện P, tỉnh Nghệ An để mua ma túy sử dụng. Khi đến huyện P, K xuống xe và gặp một người đàn ông không biết tên, địa chỉ mua với người đó 01 gói hê rô in với giá 100.000,đ. Sau khi mua được hê rô in K đón xe khách đi về huyện C, khi đến trước Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện C, K xuống xe và đi ra phía sau Ngân hàng mua nước uống và bị Công an huyện Quỳ Châu kiểm tra và đã phát hiện trong bao thuốc lá JET, K bỏ trong túi quần bên phải có một gói chất bột trắng nghi hê rô in. Công an huyện Quỳ Châu lập biên bản thu giữ vật chứng và đưa K về trụ sở để điều tra làm rõ. Quá trình điều tra K khai nhận gói chất bột trắng bị thu giữ là hê rô in do K mua về để sử dụng.
Tại kết luận giám định số 957/KL-PC54(MT) ngày 12/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn K gửi tới giám định là chất ma túy (Hê rô in). Chất bột màu trắng (01 gói) thu giữ của Lò Văn K có trọng lượng là 0,225 gam.
Cáo trạng số 64/VKS-HS ngày 08/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu truy tố bị cáo Lò Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 194 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 3 điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 1 điều 194, p khoản 1 điều 46 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù.
Do điều kiện kinh tế của bị cáo khó khăn. Do đó đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 2 điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,205 gam hê rô in.
Căn cứ vào các tài liệu chứng đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo .
XÉT THẤY
Tại phiên tòa Lò Văn K khai nhận: Bản thân là đối tượng nghiện chất ma túy. Sáng ngày 11/9/2017 bị cáo đón xe khách lên huyện P, tỉnh Nghệ An để mua hê rô in về sử dụng. Khi đến huyện P xuống xe gần một cây xăng dầu và đi tìm mua hê rô in thì có gặp một người đàn ông bị cáo không biết tên và địa chỉ hỏi và mua với người đó và được người đó bán cho một gói hê rô in với giá là 100.000,đ, sau khi mua được bị cáo bỏ gói hê rô in vào trong bao thuốc lá rồi bỏ vào túi quần rồi đón xe khách về nhà, khi xe đến Thị trấn L trước Ngân hàng nông nghiệp huyện C thì bị cáo xuống xe và đi vào sau Ngân hàng mua nước uống thì bị Công an huyện Quỳ Châu kiểm tra phát hiện gói hê rô in và bắt giữ bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được và kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An. Hành vi mua hê rô in của bị cáo với mục đích đưa về cất giữ để sử dụng cho bản thân, trọng lượng hê rô in bị cáo mua để sử dụng là 0,225gam. Hành vi trên của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 194 của Bộ luật hình sự. Như vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu truy tố bị cáo là có căn cứ.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy biết rõ về tác hại của việc sử dụng ma túy đối với sức khỏe và sự phát triển nòi giống con người, làm băng hoại đạo đức xã hội, ngoài ra còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó cần xét xử nghiêm đối với bị cáo và cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo cải tạo giáo dục trở thành người sống có ích cho xã hội và có điều kiện để bị cáo cai nghiện và từ bỏ ma túy.Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ thái độ ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1 điều 46 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra do chính sách pháp luật hình sự của nhà nước ta có thay đổi, tại khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” có mức hình phạt từ 01 đến 05 năm tù. So với khoản 1 điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” có mức hình phạt từ 02 đến 07 năm tù. Bộ luật hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành, nhưng đây là quy định có lợi cho người phạm tội. Căn cứ nghị quyết số: 41/2017/QH 14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về việc thi hành Bộ luật hình sự Số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14; Công văn 256/TANDTC-PC ngày 31/7/2017 của Tòa án nhân dân tối cao, về việc hướng dẫn thi hành khoản 2 điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14; Căn cứ vào khoản 3 điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét giảm nhẹ đối với bị cáo khi quyết định hình phạt.
Khoản 5 điều 194 BLHS quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo điều kiện kinh tế khó khăn thuộc gia đình hộ nghèo. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Đối với người bán ma túy cho bị cáo, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa không xác định được là ai, ở đâu do đó không có căn cứ để xử lý.
Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu tại bị cáo 0,225 gam hê rô in, quá trình điều tra đã trích lấy mẫu giám định còn lại 0,205 gam. Đây là vật cấm lưu hành. Áp dụng điểm a khoản 2 điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy.
Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lò Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng khoản 1 điều 194, p khoản 1 điều 46, điều 33 Bộ luật hình sự. Xử phạt Lò Văn K 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 11/9/2017.
Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 2 điều 76 Bộ luật TTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,205 gam hê rô in. Chi tiết vật chứng trên được phản ánh tại biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Quỳ Châu và Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳ Châu lập ngày 10/11/2017.
Án phí: Áp dụng điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Lò Văn Kiểm phải chịu án phí HSST là 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng).
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 61/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 61/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Châu - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về