Bản án 611/2020/HSST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 611/2020/HSST NGÀY23/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 553/2020/HSST ngày 09/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 644/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lưu Văn T, tên gọi khác: không; sinh ngày 24 tháng 02 năm 1983; Nơi ĐKHKTT: Xóm T, xã S, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Sán Dìu; Giới tính: Nam;Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông:Lưu Văn L,con bà: Vũ Thị Nh; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;Nhân thân:Tại Bản án số 254/2012/HSST ngày 19/7/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Chấp hành xong án phạt tù ngày 23/02/2014, đã chấp hành xong khoản án phí ngày 16/10/2012.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/8/2020 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên toà).

* Người chứng kiến:Anh Nguyễn Văn T, sinh năm:1969, trú tại: Xóm N, xã P, TP.Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 35 phút ngày 13 tháng 8 năm 2020, tổ công tác của Công an xã P, thành phố Thái Nguyên phối hợp cùng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 10, phường Q, thành phố Thái Nguyên thì phát hiện 01 đối tượng nam có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, đối tượng nam trên khai tên là Lưu Văn T và tự giác lấy từ túi quần bên trái của T ra giao nộp 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng (theo T khai là Heroine). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định.

Cùng ngày cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tiến hành mở niêm phong cân xác định: Số chất bột màu trắng trong 01 gói giấy màu trắng thu giữ của Lưu Văn T có khối lượng 0,130 gam (gửi giám định ký hiệu T1).

Tại Kết luận giám định số 1065/KL-KTHS ngày 21/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu T1 là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,130 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Lưu Văn T khai nhận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 13/8/2020, T một mình đi bộ từ nhà thuộc xóm T, xã S, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đến khu vực ga Quán Triều, thành phố Thái Nguyên để tìm mua ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân. Khi đi đến khu vực tổ 10, phường Q, thành phố Thái Nguyên, T gặp và mua của 01 người đàn ông không quen biết 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa Heroine với giá 100.000 đồng. Mua xong, T cất gói Heroine vừa mua được vào túi quần phía trước bên trái rồi đi về tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác của Công an xã P, thành phố Thái Nguyên phối hợp cùng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên bắt quả tang như trên.

Tại bản cáo trạng số 558/CT-VKSTPTN ngày 05/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã quyết định truy tố Lưu Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận, vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên giữ quyền công tố đã trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lưu Văn T phạm tội“ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Lưu Văn T: Từ 24 đến 30 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo;Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu T1 mặt sau phong bì có dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên và 02 chữ ký của Vũ Quang Huy, Trương Đăng Tam.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố xét xử là không oan, đúng người, đúng tội.Lời nói sau cùng của bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án nhẹ nhất, để sớm trở về là người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án,căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra,xét hỏi,tranh luận tại phiên tòa,Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lưu Văn T và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó,các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

[2].Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lưu Văn T thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện.Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, với vật chứng đã thu được,Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Hồi 10 giờ 35 phút ngày 13/8/2020, tại khu vực tổ 10, phường Q, thành phố Thai Nguyên, Lưu Văn T đang có hành vi tàng trữ 0,130 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an xã P, thành phố Thái Nguyên phối hợp cùng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi, ý thức của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3]. Bản cáo trạng số 558/CT-VKSTPTN ngày 05/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Lưu Văn T về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định như sau:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c, Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[4] Về tính chất, mức độ hành vi: Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội, nhưng do không làm chủ được bản thân nên đã dẫn đến phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xét xử bằng pháp luật hình sự và có một mức án phù hợp, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, có nhân thân xấu.Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ Luật hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy, cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe và phòng ngừa chung. Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị trong phần luận tội là phù hợp.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, bị cáo không có tài sản,không có thu nhập,nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu T1 mặt sau phong bì có dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên và 02 chữ ký của Vũ Quang Huy, Trương Đăng Tam.

[7].Án phí và quyền kháng cáo:Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8].Các vấn đề khác: Đối với số ma túy bị thu giữ, Lưu Văn T khai đã mua của một người đàn ông không rõ lai lịch. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

1/ Xử phạt: Lưu Văn T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 13/8/2020; Quyết định tạm giam bị cáo Lưu Văn T 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3/ Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu T1 mặt sau phong bì có dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên và 02 chữ ký của Vũ Quang Huy, Trương Đăng Tam.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 97ngày 06/11/2020 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

4/Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326 của UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lưu Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

5/ Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm,có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 611/2020/HSST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:611/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;