Bản án 609/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN 

BẢN ÁN 609/2020/HS-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 12 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 601/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 625/2020/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và Tên: Triệu Văn Th, sinh ngày 06 tháng 11 năm 1994 Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xóm L.D, xã BN, huyện Đ, tỉnh TN. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo : Không; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Không. Con ông Triệu Văn M, sinh năm 1964, con bà Vũ Thị P, sinh năm 1968. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 02. bị cáo chưa có vợ. Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/9/2020 đến nay. (Có mặt)

2. Họ và tên: Bùi Tiến Q, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1987.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở xóm 12, xã H.T, huyện Đ, tỉnh TN. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo : Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp : Không. Con ông Bùi Mạnh H, sinh năm 1960, con bà: Nông Thị D, sinh năm 1965. G ia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 01, bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/9/2020 đến nay. (Có mặt) * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn H.Ư, sinh năm 1968. Đ ịa chỉ xóm Q, xã V, huyện V.B, thành phố H.P (Có đơn xin xét xử vắng mặt) * Người làm chứng: Hoàng Ngọc M, sinh năm 1960. Địa chỉ xóm Đ.C, xã L.T, huyện V.N, tỉnh TN (vắng mặt).

* Người chứng kiến: Anh Phan Tiến D, sinh năm 1986. Địa chỉ tổ 5, phường Q.Tr, thành phố TN (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30 phút ngày 09/9/2020, tổ công tác của Công an phường Q.Tr, thành phố TN làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 5, phường Q.Tr phát hiện 02 người nam giới đi trên xe mô tô BKS 20N5 -0921 có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. 02 người này khai tên là Triệu Văn Th và Bùi Tiến Q. Th tự giác lấy từ trong túi quần bên phải Th đang mặc ra 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng giao nộp cho tổ công tác.Th và Q khai đó là ma túy Heroine của Th và Q góp tiền mua để sử dụng chung. Tiếp tục kiểm tra người Th, Q và xe mô tô BKS 20N5-0921 không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Triệu Văn Th, Bùi Tiến Q và niêm phong, thu giữ vật chứng theo quy định, đồng thời tạm giữ xe mô tô BKS 20N5-0921.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành mở niêm phong, cân toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ của Triệu Văn Th có khối lượng là: 0,201 gam, cho vào bì niêm phong ký hiệu B gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 1179/KL-KTHS ngày 17/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong ký hiệu B gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,201 gam.

Tại cơ quan điều tra, Triệu Văn Th và Bùi Tiến Q khai: Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 09/9/2020, Triệu Văn Th và Bùi Tiến Q gặp nhau tại quán nước ở phường Đồng Quang, thành phố TN. Quá trình uống nước, Th và Q rủ nhau góp tiền để đi mua ma túy về cùng sử dụng. Th góp 80.000đ, Q góp 20.000đ. Q sử dụng xe mô tô BKS 20N5-0921 (là xe Q mượn của ông Nguyễn Văn H.Ư, sinh năm 1968, trú tại: xóm Q, xã V, huyện, thành phố H.P) chở Th đến khu vực tổ 5, phường Q.Tr, thành phố TN để tìm mua ma túy. Tại đây, Th trực tiếp mua của 01 nam thanh niên 01 gói Hero ine được bọc bằng giấy bạc màu vàng với giá 100.000đ. Th cầm gói ma túy cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi lên xe mô tô để Q điều khiển đi tìm nơi để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Q.Tr, thành phố TN bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai nhận của Triệu Văn Th, Bùi Tiến Q phù hợp với nhau và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án Vật chứng của vụ án gồm: 01 bì niêm phong ký hiệu B (bên trong chứa ma túy); 01 xe mô tô BKS 20N5-0921, số khung: 1MV71 015279, số máy: 2FMH*715279*. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 607/CT-VKSTPTN ngày 19 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Triệu Văn Th và Bùi Tiến Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Triệu Văn Th, Bùi T iến Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt:

- Triệu Văn Th từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù giam.

- Bùi Tiến Q từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù giam.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu B.

Trả lại cho ông Nguyễn Văn H.Ư, sinh năm 1968. Địa chỉ xóm A xã V, huyện B, thành phố HP là người đã cho bị cáo Q mượn xe mô tô trên và không biết Q đi mua ma túy.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Phần lời nói sau cùng cả hai bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo, không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, cả hai bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, lời khai của người chứng kiến; biên bản bắt người phạm tội quả tang, cân xác định trọng lượng; kết luận giám định và vật chứng thu giữ Hội đồng xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 13 giờ 30 phút ngày 09/9/2020, tại khu vực tổ 5, phường Q.Tr, thành phố TN, Triệu Văn Th, Bùi Tiến Q có hành vi tàng trữ 0,201 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Q.Tr phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Các bị cáo biết ma túy là vật cấm được Nhà quản lý nhưng cả hai bị cáo vẫn cố tình tàng trữ 0,201 gam Heroine để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi của các bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố TN truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.”

[4] Xét tính chất mức độ hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[5] Xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án: Triệu Văn Th và Bùi Tiến Q đều là những đối tượng nghiệm ma túy, không có nghề nghiệp, cùng rủ nhau góp tiền mua ma túy sử dụng chung. Do vậy vai trò phạm tội của hai bị cáo trong vụ án là ngang nhau.

[6] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo thấy: Cả hai bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cả hai bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình, các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét thấy, cả hai bị cáo là người nghiện ma túy, không chịu cai nghiện, tu dưỡng rèn luyện bản thân, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để các bị cáo thấy được sự nghiêm khắc của pháp luật đối với các bị cáo để các bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật, rèn luyện bản thân cải tạo trở thành người tốt.

Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[7] Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu B (bên trong chứa ma túy) là vật cấm và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe mô tô BKS 20N5-0921, số khung: 1MV71 015279, số máy:

2FMH*715279* là tài sản của ông Nguyễn Văn H.Ư là người cho Bùi Tiến Q mượn chiếc xe, do Q mượn để đi mua ma túy ông H.Ư không biết, vì vậy Hội đồng xét xử xem xét cần trả lại chiếc xe trên cho ông H.Ư quản lý sử dụng.

[7] Về hình phạt bổ sung và án phí - Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với cả hai bị cáo, tuy nhiên theo biên bản xác minh và tại phiên tòa, cả hai bị cáo khai là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng, nên Hội đồng xét xử không phạt bổ sung đối với cả hai bị cáo.

- Án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước. Vê nguồn gốc số ma túy bị thu giữ Triệu Văn Th, Bùi Tiến Q khai mua của một người thanh niên không rõ lai lịch, địa chỉ tại khu vực phường Q.Tr, thành phố TN. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở làm rõ để xử lý.

Đối với ông Nguyễn Văn H.Ư là người cho Bùi Tiến Q mượn chiếc xe mô tô BKS 20N5-0921; xét thấy ông H.Ư không biết Q sử dụng xe để đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố TN không xử lý.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Triệu Văn Th; Bùi Tiến Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Áp dụng điểm c khoản 1 Đ iều 249; Đ iểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt:

- Bị cáo Triệu Văn Th 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/9/2020. Không phạt bổ sung đối với bị cáo;

- Bị cáo Bùi Tiến Q 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày ngày 09/9/2020. Không phạt bổ sung đối với bị cáo;

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định tạm giam bị cáo Triệu Văn Th; Bùi Tiến Q mỗi bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu B - Trả cho ông Nguyễn Văn H.Ư 01 xe mô tô - 01 xe mô tô BKS 20N5-0921, trên thân xe có dán chữ Sisius, số khung:1MV71 015279, số máy: 2FMH*715279, nhãn hiệu LADALAD, loại xe: nữ, dung tích 107, màu sơn: Đen.

Biên bản giao nhận vật chứng số 126 ngày 17/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Th và Q mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 609/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:609/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;