TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 60/2021/HSST NGÀY 13/07/2021 VỀ TỘI SẢN XUẤT TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 13 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2021/HSST ngày 21 tháng 6 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2021/QĐXXST – HS ngày 25 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
Lò Thị H; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1957 tại: Huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản K N, xã P B, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông: Lò Văn Ă (Đã chết) và bà Lò Thị A (Đã chết); bị cáo có chồng là: Lò Văn Y, sinh năm: 1956 và có 05 con (Đều đã trưởng thành); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/02/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Sơn La, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người người dịch cho bị cáo: Ông Vì Duy Thọ, sinh năm: 1983, nơi cư trú: Bản Ban, xã Sốp Cộp, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Số Chứng minh nhân dân: 050478580 do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 13/3/2014 (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 16 giờ 40 phút ngày 19/02/2021, tại khu vực bản Khá Nghịu, xã Púng bánh, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La phối hợp với Công an xã Púng Bánh trong quá trình làm nhiệm vụ đã phát hiện bắt quả tang đối tượng Lò Thị H (Sinh năm: 1957, trú tại: Bản K N, xã P B, huyện Sốp Cộp) về hành vi dùng kim khâu khứa rạch quả thực vật để lấy nhựa nghi là Thuốc phiện. Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa 01 cục nhựa thực vật màu nâu đen (Nghi là nhựa Thuốc phiện);
- 29 cây thực vật có quả đã bị khứa lấy nhựa (Nghi là cây Thuốc phiện);
- 01 chiếc bát con bằng sứ (Đã qua sử dụng);
- 01 chiếc thìa bằng kim loại (Đã qua sử dụng);
- 01 chiếc kim khâu (Đã qua sử dụng).
Ngày 20/02/2021, tại cơ quan CSĐT Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã tiến hành cân tịnh cục nhựa thực vật màu nâu đen do thu giữ của Lò Thị H, có khối lượng là 11,23 gam (Mười một phẩy hai mươi ba gam). Sử dụng toàn bộ 11,23 gam ký hiệu H làm mẫu gửi giám định.
Tại bản Kết luận giám định số: 488 ngày 22/02/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu H là ma túy, loại Thuốc phiện; khối lượng của mẫu gửi giám định là 11,23 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 11,23 gam, loại Thuốc phiện.
Tại bản Kết luận giám định số 1256 ngày 10/3/2021 của Viện khoa học hình sự, Bộ Công an, kết luận: 05 cây, quả màu xanh (Ký hiệu H1) gửi giám định là cây quả Thuốc phiện (Anh túc, A phiến) có tên khoa học là: Papaver somniferum L thuộc họ Anh túc. Họ Anh túc có tên khoa học là: Papaveraceae juss.
Tại bản Kết luận giám định số 2133 ngày 29/4/2021 của Viện khoa học hình sự, Bộ Công an, kết luận: 24 cây (Ký hiệu H2) gửi giám định đều là cây Thuốc phiện (Anh túc, A phiến) có tên khoa học là: Papaver somniferum L thuộc họ Anh túc. Họ Anh túc có tên khoa học là: Papaveraceae juss.
Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, bị can Lò Thị H đã khai nhận hành vi phạm tội như sau:
Khoảng cuối tháng 11 năm 2020 Lò Thị H, sinh năm 1957, cư trú tại bản K N, xã P B, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La làm đất trồng rau tại khu vực Huổi Man, thuộc bản Khá Nghịu, xã Púng Bánh, huyện Sốp Cộp. Sau khi chuẩn bị xong đất trồng rau thì Lò Thị H đã đi xin được một ít hạt rau cải của một đàn ông dân tộc Mông ở xã Sam Kha, huyện Sốp Cộp đem mang về reo trồng. Sau một thời gian thì Hoa phát hiện tại đám đất trồng rau ngoài hạt rau cải nảy mầm thì còn xen lẫn cả cây Thuốc phiện cũng mọc cùng, tuy nhiên Lò Thị H đã không nhổ bỏ cây Thuốc phiện mà cố tình giữ lại chăm sóc để khi cây thuốc phiện ra quả sẽ lấy nhựa làm thuốc chữa bệnh cho bản thân và gia súc. Đến ngày 14/02/2021 là lúc những cây Thuốc phiện đã cho quả và có thể lấy được nhựa nên Hoa đã dùng kim khâu khứa dọc quả thuốc phiện để nhựa trong quả Thuốc phiện chảy ra sau đó đến ngày hôm sau thì H dùng thìa ăn cơm cạo lấy nhựa Thuốc phiện cho vào bát sứ sau đó cho vào túi ni lon cất dấu ở lán nương của mình để làm thuốc chữa bệnh. Ngày 19/02/2021 trong khi H đang chăm sóc vườn rau cải có xen lẫn cây Thuốc phiện thì bị tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La phối hợp với Công an xã Púng Bánh phát hiện bắt quả tang về hành vi trồng Thuốc phiện, Lò Thị H tự giác giao nộp vật chứng là 11,23 gam nhựa Thuốc phiện và 29 Thuốc phiện có quả đã bị chính Lò Thị H lấy nhựa như đã nêu.
Tại bản Cáo trạng số: 37/CT - VKS ngày 18/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Lò Thị H về tội: Sản xuất trái phép chất ma tuý, theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, giữ quan điểm truy tố bị cáo Lò Thị H, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;
- Tuyên bố bị cáo Lò Thị H phạm tội: Sản xuất trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 24 đến 30 tháng tù.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 248 Bộ luật hình sự, đối với bị cáo.
Xử lý vật chứng:
Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 9,16 gam ma túy, loại Thuốc phiện (Số còn lại không sử dụng đến trong quá trình giám định); 01 mảnh ni lon màu trắng; 01 chiếc bát sứ; 01 chiếc thìa kim loại và 01 chiếc kim khâu.
Về án phí: Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Miễn cho bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa bị cáo có ý kiến: Thừa nhận trong khoảng thời gian từ cuối tháng 11 năm 2020 đến ngày 19/02/2021 đã thực hiện hành vi trồng, chăm sóc 29 cây Thuốc phiện, sau đó dùng kim khâu, thìa ăn cơm lấy được 11,23 gam nhựa Thuốc phiện cất dấu tại lán nương để làm thuốc chữa bệnh cho bản thân và gia súc. Nay bị cáo đã biết tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét việc bị cáo là phụ nữ đã trên 60 tuổi; sức khỏe chưa ổn định sau tai nạn giao thông năm 2019 và mục đích trồng cây Thuốc phiện lấy nhựa chỉ để dùng làm thuốc chữa bệnh cho bản thân và gia súc mà giảm nhẹ hình phạt thấp nhất cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về nội dung: Ngày 19/02/2021, bị cáo Lò Thị H (Có căn cước lý lịch như trên) đã bị bắt quả tang về hành vi cất dấu trái phép chất ma túy (11,23 gam Thuốc phiện) do chính bị cáo trồng và sản xuất ra với mục đính sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho bản thân và gia súc. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi trồng, sản xuất trái phép chất ma túy là nguy hiểm xã hội và bản thân bị cáo, là hành vi bị pháp luật hình sự nghiêm cấm. Tuy nhiên do coi thường quy định của pháp luật mà vẫn cố ý thực hiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ là 29 cây thuốc phiện và thuốc phiện được bị cáo sản xuất từ cây thuốc phiện do bị cáo trồng; kết luận giám định về thuốc phiện và cây thuốc phiện cùng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Thị H đã phạm vào tội: Sản xuất trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại Điều 248 Bộ luật hình sự quy định:
“ 1. Người nào sản xuất trái phép chất ma tuý dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
………… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.".
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội sản xuất trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về sản xuất, sử dụng các chất ma tuý. Hành vi sản xuất trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho bản thân và gia súc của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi đây cũng là một trong các loại ma túy có trên thị trường gây nghiện cho con người; là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng, gây mất trật tự an ninh xã hội ở địa phương. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, nên cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để trừng trị, răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ý thức chấp hành pháp luật nhà nước.
[4] Tình tiết tăng nặng: Không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn giao nộp vật chứng và khai nhận tội; gia đình bị cáo là gia đình chính sách có công với cách mạng (Vợ chồng bị cáo nuôi dưỡng mẹ liết sĩ Lò Văn P - bút lục 153, 154 hồ sơ), ngoài ra nhân thân bị cáo là người phụ nữ đã trên 60 tuổi sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn, có phần hạn chế hiểu biết pháp luật và sức khỏe yếu sau vụ tại nạn giao thông ngày 03/10/2019 (Chấn thương sọ não do dập não thái dương trái, bút lục 91, 92 hồ sơ). Mà xem xét, áp dụng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
[6] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.
[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 248 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào biên bản xác minh xác định bị cáo không có tài sản để thi hành. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng.
[8] Xử lý vật chứng:
- Đối với 9,16 gam Thuốc phiện (Số còn lại không sử dụng đến trong quá trình giám định) là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và là vật nhà nước cấm lưu hành. Do vậy cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự để tuyên tịch thu tiêu hủy cùng các vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội sản xuất trái phép chất ma túy của bị cáo.
- Đối với vật chứng là 29 cây Thuốc phiện, do đã sử dụng hết trong quá trình giám định, nên không đặt ra vấn đề xử lý trong bản án.
[9] Đối với nguồn gốc 29 cây Thuốc phiện, theo bị cáo khai bị lẫn trong số hạt rau cải giống do bị cáo xin của một đàn ông dân tộc Mông ở xã Sam Kha, huyện Sốp Cộp. Quá trình điều tra bị cáo không cung cấp được tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng cụ thể của đối tượng , nên không có cơ sở để điều tra làm rõ và xử lý.
[10] Đối với hành vi trồng 29 cây Thuốc phiện của bị cáo để lấy nhựa thuốc phiện. Xét số lượng cây không đủ điều kiện cấu thành tội phạm độc lập quy định tại điểm c khoản 1 Điều 247 Bộ luật hình sự (Từ 500 cây đến dưới 300 cây) và hành vi này có mối quan hệ là điều kiện để bị cáo thực hiện hành vi phạm tội sản xuất trái phép chất ma túy bị truy tố, xét xử trong vụ án. Do vậy cơ quan Cảnh sát Điều tra không đề cập xử lý hành chính cũng như xử lý hình sự đối với hành vi trồng 29 cây Thuốc phiện của bị cáo là có căn cứ.
[11] Bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
[12] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ khoản 1 Điều 248; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;
- Tuyên bố bị cáo Lò Thị H phạm tội: Sản xuất trái phép chất ma tuý.
- Xử phạt bị cáo Lò Thị H 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 19/02/2021 (Ngày bắt giữ bị cáo).
Căn cứ khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Tiếp tục tạm giam bị cáo Lò Thị H trong hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.
2. Xử lý vật chứng:
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
- Tuyên tịch thu tiêu huỷ:
+ 01 (Một) phong bì thư của Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã được niêm phong dán kín bằng giấy niêm phong, một mặt phong bì ghi: " Vật chứng vụ: Lò Thị H - Sản xuất trái phép chất ma túy, bắt ngày 19/02/2021 tại bản Khá Nghịu, xã Púng Bánh, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; bên trong có chứa 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh ni lon màu trắng".
+ 01 (Một) phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, đã được niêm phong dán kín. Mặt trước phong bì ghi: " CÔNG AN TỈNH SƠN LA, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, PHONG BÌ NIÊM PHONG. Vật chứng vụ: Lò Thị H - Sản xuất trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 19/02/2021, tại xã Púng Bánh, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Niêm phong hồi 08 giờ 00 phút, ngày 25 tháng 02 năm 2021. Tại: Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La. Gồm có: Phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + 01 (Một) túi ni lon màu trắng chứa chất nhựa thực vật màu nâu đen, thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu H, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 9,16 gam".
(Theo kết luận giám định số: 488 ngày 22/02/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La thì chứa chất nhựa thực vật màu nâu đen, thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu H, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 9,16 gam là ma túy; loại Thuốc phiện).
+ 01 (Một) túi ni lon màu xanh bên trong có 01 chiếc bát con màu trắng, 01 chiếc thìa kim loại màu bạc, 01 chiếc kim khâu bằng kim loại màu bạc (Đã qua sử dụng)
3. Án phí:
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Miễn cho bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo:
Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
Báo cho bị cáo biết quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (13/7/2021).
Bản án 60/2021/HSST ngày 13/07/2021 về tội sản xuất trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 60/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về