Bản án 60/2021/HNGĐ-ST ngày 20/08/2021 về ly hôn giữa chị T và anh K

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 60/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ T VÀ ANH K

Ngày 20 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 148/2021/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp “ Ly hôn, con chung”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2021/QĐXX-ST ngày 28 tháng 7 năm 2021, giữa:

Nguyên đơn: Chị Trương Thị T, sinh năm 1990 (có mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1986 (có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Đông T, xã Tam D, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 01/4/2021 và trong các lời khai và tại phiên tòa hôm nay chị Trương Thị T là nguyên đơn trình bày: Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn K năm 2011, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tam Dị, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, trước khi kết hôn hai bên được tự do tìm hiểu, cưới xong chị và anh T về chung sống với nhau ở thôn Đông Thịnh, xã Tam Dị, huyện Lục Nam. Đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do vợ chồng không hiểu nhau thường xuyên xảy ra xô xát cãi chửi nhau cuộc sống không có hạnh phúc, ai làm gì thì kệ người đó. Anh K đã có người phụ nữ khác và có con. Chị và anh K đã sống ly thân từ đầu năm 2014 cho đến nay không còn quan hệ gì về tình cảm và kinh tế.

Chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ từ tháng 02/2014 cho đến nay không vể nhà anh K nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không xây dựng hạnh phúc được với nhau chi đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với anh K.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung, Nguyễn Khánh L, sinh năm 2012 chị đề nghị được nuôi con và không yêu cầu anh K góp cấp dưỡng nuôi con. Chị hiện đang làm công nhân thu nhập từ 10 -16 triệu đồng/ tháng có đủ điều kiện nuôi và chăm sóc con. Cháu Ly hiện nay đang ở với chị cháu vẫn khỏe mạnh và phát triển bình thường, Về tài sản, công nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn K trình bày trong bản tự khai: Lời khai của chị T nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng và về con chung là hoàn toàn đúng Nay chị T yêu cầu ly hôn anh nhất trí ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung, Nguyễn Khánh L, sinh năm 2012. Hiện cháu đang ở với chị T, nay ly hôn anh đồng ý để chị T nuôi con. Cấp dưỡng nuôi anh không đề nghị tòa án giải quyết.

Về tài sản, công nợ: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay anh Nguyễn Văn K có đơn xin xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý Tòa án thụ lý chậm đề nghị rút kinh nghiệm. Đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía các đương sự, chấp hành nghiêm chỉnh quyền và nghĩa vụ của mình. Anh T có đơn xin xét xử vắng mặt.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147; Điều 227; 228; 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 xử:

Về quan hệ vợ chồng: Cho chị Trương Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn K.

2. Về nuôi con chung: Giao chị Trương Thị T trực tiếp nuôi con Nguyễn Khánh L, sinh năm 2012. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn anh K được quyền thăm nom con chung, chị T không được cản trở anh K thực hiện quyền này.

Ngoài ra còn đề xuất về án phí và quyền kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, HĐXX nhận thấy:

[1] Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lục Nam đã tống đạt theo đúng quy định pháp luật các văn bản tố tụng, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho các đương sự. Tại phiên tòa chị T có mặt, anh K có đơn xin vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227; Điều 228 BLTTDS, HĐXX đưa vụ án ra xét xử.

[2] Về nội dung: Chị Trương Thị T kết hôn với anh Nguyễn Văn K năm 2011 trên cơ sở tự nguyện hợp pháp. Cưới xong anh chị về chung sống với nhau ngay và hòa thuận đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do vợ chồng không hiểu nhau thường xuyên xảy ra xô xát cãi chửi nhau cuộc sống không có hạnh phúc ai làm gì thì kệ người đó. Chị và anh K đã sống ly thân từ đầu năm 2014 cho đến nay không còn quan hệ gì về tình cảm và kinh tế.

Chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ từ tháng 02/2014 cho đến nay không vể nhà anh K nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không xây dựng hạnh phúc được với nhau chi đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với anh K. Ý kiến của anh K nhất trí ly hôn xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng mục đích hôn nhân không đạt được cần cho chị T được ly hôn anh K là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung, Nguyễn Khánh L, sinh năm 2012. Hiện cháu đang ở với chị T cháu vẫn khỏe mạnh và phát triển bình thường, nguyện vọng của cháu Ly bố mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng được ở với mẹ. Nay ly hôn phía chị T đề nghị được trực tiếp nuôi cháu. Phía anh K cũng nhất trí để cho chị T nuôi con. Xét thấy yêu cầu, nguyện vọng của các đương sự là chính đáng và phù hợp nên cần giao cho chị T được trực tiếp nuôi con. Chị T không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết. Xét thấy là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Sau khi ly hôn anh K được quyền thăm nom con chung, chị T không được cản trở anh K thực hiện quyền này.

[4] Về tài sản, công nợ: Chị T anh K không đề nghị Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị T phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2015; khoản 4 Điều 147, Điều 227; Điều 228, Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý án phí, lệ phí, tuyên xử:

1.Về quan hệ vợ chồng: Cho chị Trương Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn K.

2. Về nuôi con chung: Giao chị Trương Thị T trực tiếp nuôi con Nguyễn Khánh L, sinh năm 2012. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn anh K được quyền thăm nom con chung, chị T không được cản trở anh K thực hiện quyền này.

3.Về án phí: Chị Trương Thị T phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp tại chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Nam ngày 28/4/2021 theo biên lai thu số AA/2017/0005355 xác nhận chị T đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Báo cho các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 60/2021/HNGĐ-ST ngày 20/08/2021 về ly hôn giữa chị T và anh K

Số hiệu:60/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;