Bản án 60/2021/HNGĐ-ST ngày 10/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 60/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 10 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 956/2020/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2021/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2021 , giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Kim D, sinh năm 1991; thường trú: Đường C, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương; Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Trần Đức S, sinh năm 1984; thường trú: Đường C, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện nộp ngày 27/10/2020, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn bà Phạm Thị Kim D trình bày:

Bà D và ông S chung sống với nhau từ năm 2014, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 20/01/2014 tại Uỷ ban nhân dân xã Y, huyện Đ, tỉnh H.

Trong quá trình chung sống thời gian đầu thì hạnh phúc tuy nhiên đến hiện nay vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, gây gổ, cãi vã do bất đồng quan điểm sống. Ông S ham chơi, không quan tâm gia đình, mỗi khi nhậu nhẹt về thì chửi bới, đập phá đồ đạc trong gia đình. Mặc dù vợ chồng đã cố gắng hàn gắn nhưng hiện nay tình trạng của vợ chồng vẫn không được cải thiện. Vợ chồng sống không có tình cảm, không còn hạnh phúc, không ai quan tâm đến ai. Hiện đã ly thân không còn sống chung cùng nhau từ cuối năm 2019.

Bà D xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, mục đích hôn nhân không đạt được không thể hàn gắn đoàn tụ với nhau được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà D được ly hôn với ông Trần Đức S.

Quá trình chung sống bà D và ông S có 02 con chung tên Trần Ngọc Lan K, sinh ngày 16/12/2015 và Trần Lan K2, sinh ngày 26/12/2018. Sau khi ly hôn, bà D yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Lan K2, giao cho ông S trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Ngọc Lan K, không ai phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Ngoài ra, bà D không có yêu cầu khác, không cung cấp chứng cứ gì thêm.

* Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa bị đơn ông Trần Đức S trình bày:

Ông S thống nhất với lời trình bày của bà D về quá trình chung sống, cũng như về con chung và việc có đăng ký kết hôn và việc ly thân. Về mâu thuẫn gia đình thì chỉ là những mâu thuẫn nhỏ, do bất đồng ý kiến nên có lời qua tiếng lại, nóng giận thì đôi khi có chửi bới, xúc phạm, đập phá đồ đạc chứ ông S chưa bao giờ đánh đập bà D. Trước yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị Kim D thì ông S không đồng ý vì vẫn còn yêu thương bà D. Ông S mong muốn vợ chồng hàn gắn cùng xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc.

Trong trường hợp bà D kiên quyết xin ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình chung sống ông S và bà D có 02 con chung tên Trần Ngọc Lan K, sinh ngày 16/12/2015 và Trần Lan K2, sinh ngày 26/12/2018. Sau khi ly hôn, ông S đề nghị giao cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng 02 cháu Trần Lan K2 và cháu Trần Ngọc Lan K. Ông S đồng ý cấp dưỡng nuôi 02 con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Trường hợp Tòa án giải quyết cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Lan K2, giao cho ông S trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Ngọc Lan K thì ông S cũng đồng ý và không ai phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Ông S không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Ngoài ra ông S không có ý kiến, yêu cầu gì khác.

Tại biên bản xác minh nguyên nhân mâu thuẫn giữa bà D và ông S do Tòa án tiến hành ngày 05/3/2021, chính quyền địa phương cung cấp thông tin như sau: Quá trình bà Phạm Thị Kim D và ông Trần Đức S sinh sống tại địa phương chính quyền không nhận được đơn thư hay trình báo gì về việc bà D và ông S có xảy ra mâu thuẫn trong gia đình nên chính quyền địa phương không biết được mâu thuẫn giữa vợ chồng bà D và ông S là gì cũng như công việc, thu nhập của họ nên không cung cấp thông tin được cho Tòa án.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương có ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng, đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định; Không kiến nghị khắc phục, bổ sung các thủ tục tố tụng. Quan hệ pháp luật là ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa nhận thấy mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa bà D thì ông S là trầm trọng, không hàn gắn đoàn tụ được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Kim D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà D khởi kiện tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn ông Trần Đức S có hộ khẩu thường trú tại số đường C, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương nên căn cứ theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương; quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Kim D và ông Trần Đức S chung sống với nhau từ năm 2014, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 20/01/2014 tại Uỷ ban nhân dân xã Y, huyện Đ, tỉnh H, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 06 ngày 20/01/2014. Như vậy, hôn nhân giữa bà D và ông S là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận.

Bà D trình bày trong quá trình chung sống thời gian hiện nay vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, gây gổ, cãi vã do bất đồng quan điểm sống, ông Sơn ham chơi, không quan tâm gia đình; mỗi khi nhậu nhẹt về thì chửi bới, đập phá đồ đạc trong gia đình. Mặc dù đã cố gắng hàn gắn nhưng hiện nay tình trạng của vợ chồng vẫn không được cải thiện. Vợ chồng sống không có tình cảm, không còn hạnh phúc, không ai quan tâm đến ai. Hiện đã ly thân không còn chung sống cùng nhau từ cuối năm 2019. Bà D xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông S. Ông S thống nhất với lời trình bày của bà D về quá trình chung sống, cũng như về con chung và việc có đăng ký kết hôn và thời gian ly thân. Về mâu thuẫn gia đình chỉ là nhưng mâu thuẫn nhỏ, do bất đồng ý kiến nên có lời qua tiếng lại, nóng giận thì đôi khi có chửi bới, xúc phạm, đập phá đồ đạc chứ ông S chưa đánh đập bà D. Trước yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị Kim D thì ông S không đồng ý vì vẫn còn yêu thương bà D, mong muốn vợ chồng hàn gắn cùng xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc.

Hội đồng xét xử nhận thấy quan hệ hôn nhân phải được xây dựng trên tình yêu thương, trách nhiệm, nghĩa vụ, sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau về mọi mặt; cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình. Ông S không đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được giải pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng, bà D kiên quyết xin ly hôn. Đồng thời, tại phiên tòa ông S và bà D cũng thừa nhận vợ chồng đã ly thân từ cuối năm 2019 cho đến nay. Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định quan hệ hôn nhân giữa bà D, ông S đã trầm trọng. Nên việc bà D yêu cầu ly hôn với ông S là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2.2] Về con chung:

Bà D và ông S có 02 con chung tên Trần Ngọc Lan K, sinh ngày 16/12/2015 và Trần Lan K2, sinh ngày 26/12/2018. Bà D nhận được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Lan K2, giao cho ông Sơn trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Ngọc Lan K, không ai phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn xác định nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà D thì ông S đề nghị giao cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng 02 cháu Trần Lan K2 và cháu Trần Ngọc Lan K. Ông S đồng ý cấp dưỡng nuôi 02 con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Trường hợp Tòa án giải quyết cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Lan K2, giao cho ông S trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Ngọc Lan K thì ông S cũng đồng ý và không ai phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Bị đơn đề nghị giao 02 con chung cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng nhưng bà D không đồng ý. Việc trông nom chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục con chưa thành niên vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha mẹ. Đồng thời, việc giao con chung cho ai nuôi dưỡng cần phải xem xét đến quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Xét thấy, cả nguyên đơn và bị đơn đều làm giờ hành chính việc giao cả hai con chung cho một người sẽ gây khó khăn đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu cũng như công việc của nguyên đơn và bị đơn. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, giao cháu Trần Lan K2, sinh ngày 26/12/2018 cho bà D trực tiếp trông nom chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục; giao cháu Trần Ngọc Lan K, sinh ngày 16/12/2015 cho ông S trực tiếp trông nom chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục.

Bà D và ông S đều không yêu cầu bên còn lại phải cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của đương sự nên ghi nhận.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án, các thủ tục tố tụng, quá trình tiến hành tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

[4] Về án phí: Nguyên đơn bà D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 235, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Kim D đối với ông Trần Đức S về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Kim D được ly hôn với ông Trần Đức S.

1.2. Về con chung: Giao con chung tên Trần Lan K2, sinh ngày 26/12/2018 cho bà Phạm Thị Kim D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Giao con chung tên Trần Ngọc Lan K, sinh ngày 16/12/2015 cho ông Trần Đức S trực tiếp trông nom chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục Ghi nhận sự tự nguyện của bà Phạm Thị Kim D và ông Trần Đức S về việc không yêu cầu bên còn lại cấp dưỡng nuôi con chung.

Phạm Thị Kim D và ông Trần Đức S đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí: Bà Phạm Thị Kim D phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm mà bà D đã nộp theo biên lai thu số 0048905 ngày 05 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 60/2021/HNGĐ-ST ngày 10/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:60/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;