TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 60/2020/HS-PT NGÀY 23/07/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 23 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 42/TLPT-HS ngày 15 tháng 6 năm 2020, đối với bị cáo Ng T P, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 79/2020/HSST ngày 11/05/2020 của Tòa án nhân dân thành phố NT, tỉnh K H.
Bị cáo có kháng cáo:
Ng T P (Tên gọi khác: C H) - sinh năm: 1994, tại Khánh Hòa. Nơi cư trú: Thôn X S, xã V T, thành phố N T, tỉnh K H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh, Tôn giáo Không; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Thợ sơn nước; Cha: Ng T L - sinh năm: 1968; Mẹ: Tr T H - sinh năm: 1971, bị cáo chưa có vợ, con.
Tiền sự: Không; Tiền án:
- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 86/2016/HS-ST ngày 01 tháng 3 năm 2016, Tòa án nhân dân thành phố N T xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 24 tháng 8 năm 2016, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù và đã thi hành xong phần án phí.
- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 50/2017/HS-ST ngày 03 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện D K xử phạt 02 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Ngày 19 tháng 01 năm 2019, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù và đã thi hành xong phần án phí. Nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/2013/HS-ST ngày 09 tháng 5 năm 2013 của Tòa án nhân dân huyện D K xử phạt 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; ngày 12 tháng 12 năm 2014, bị cáo chấp hành xong bản án.
Bị cáo đang bị giam trong vụ án khác; có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Ng Đ T, Ng T L không có kháng cáo và cũng không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ, ngày 31 tháng 5 năm 2019, Ng Đ T đến tiệm game “Bắn cá”, địa chỉ: Thôn Đ, xã V P, N T (do Ng T L làm quản lý) để chơi game. Trong lúc chơi, T biết được Ng T P có nhờ Luân giới thiệu người cần bán xe máy không có giấy tờ để P mua. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, T nhờ Ng T D (là bạn chơi game) dùng xe máy chở T về nhà. Trên đường về đến đoạn gần Cửa hàng xăng dầu V Th, thuộc thôn P B, xã V Th, N T thì xe bị tắt máy, D vào cửa hàng đổ xăng, còn T đi ra khu vực nhà vệ sinh của cửa hàng xăng dầu để đi vệ sinh. Tại đây, T thấy có 01 xe máy hiệu Yamaha Exciter màu đỏ - trắng, mang biển số 79Z1-216.63 (của anh L T T) dựng gần đó, chìa khóa còn gắn trên xe và không có người trông giữ nên T đã lấy trộm chiếc xe này và điều khiển xe về nhà bạn của T tên là M (không rõ nhân thân, lại lịch - địa chỉ 114/19 đường P L, phường P L, N T) để cất giấu.
Về phía Ng T D, trong lúc đổ xăng thì thấy T điều khiển xe nói trên chạy từ phía sau Cửa hàng ra nên biết xe này có được là do T trộm cắp. Đổ xăng xong, D chạy xe về lại tiệm game của L để kể sự việc T vừa trộm xe cho L và Ng Đ V biết.
Khoảng 19 giờ cùng ngày, D cùng V đến gặp anh Ng T T kể lại việc T đã trộm cắp xe; nghe xong, anh T nhờ D và V khi nào bắt được T thì báo cho anh T biết.
Tại nhà M, T nói với M là xe máy Exciter bị hư nên gửi lại nhà M. Khoảng 21 giờ cùng ngày, T mượn xe máy Attila của M đến tiệm game “Bắn cá” gặp L. Tại đây, T nhờ L giới thiệu người cần mua xe không có giấy tờ. L biết đây là chiếc xe mà T đã trộm cắp tại Cửa hàng xăng dầu V Th nên gọi điện cho Ng T P và nói “Có người muốn bán xe Exciter không giấy tờ, có mua không?”, P đồng ý mua. Sau đó, L bảo T đến gặp P tại khu vực nhà thờ B C, xã V T, N T để giao dịch.
Khi gặp P, T thỏa thuận bán xe máy Exciter nói trên với giá 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng), P đồng ý mua. T điều khiển xe Attila chở P đến nhà M tại địa chỉ 114/19 đường P L, phường P L, N T, để lấy xe và P đưa cho T 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng). Sau khi nhận xe, P gọi điện cho 01 thanh niên tên là Ch (không rõ nhân thân, lai lịch) có nhà tại khu vực xã V Th, N T và bán chiếc xe nói trên cho Ch với giá 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 01 tháng 6 năm 2019, L thấy T đang chơi tại tiệm game “Bắn cá” của mình nên gọi điện báo cho D và V biết. Khi V đến tiệm game thì T nhờ V chở về nhà. V đồng ý nhưng không chở T về nhà mà chở đến gần Cửa hàng xăng dầu V Th để D cùng một số người dân bắt giữ T và giao cho Cơ quan Công an.
Tại Kết luận định giá số 341/HĐĐG ngày 10 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân thành phố N T, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, số máy: G3D4E043340, số khung: 0610FY041032, biển số 79Z1-216.63 trị giá: 27.755.000 đồng (Hai mươi bảy triệu bảy trăm năm mươi lăm ngàn đồng).
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 79/2020/HSST ngày 11 tháng 5 năm 2020, Tòa án nhân dân thành phố N T, tỉnh K H đã quyết định:
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Ng T P (tên gọi khác: C H);
Xử phạt: Bị cáo Ng T P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định xử phạt bị cáo Ng Đ T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Ng T L 06 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự; quyết định về trách nhiệm dân sự, vật chứng, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo.
Ngày 22 tháng 5 năm 2020, bị cáo Ng T P kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm mức hình phạt cho bị cáo vì mức án Tòa cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là quá nặng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đề nghị Hội đồng xét xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ng T P và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Bị cáo giữ nguyên kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Bị cáo Ng T P kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn luật định, nên kháng cáo của bị cáo được cấp phúc thẩm xem xét.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Ng T P khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như bản án sơ thẩm nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, vật chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan Cảnh sát điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đủ cơ sở để kết luận:
Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 31 tháng 5 năm 2019, dù biết rõ nguồn gốc chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 79Z1-216.63 là do Ng Đ T trộm cắp mà có, nhưng Ng T P vẫn mua với giá 8.000.000đ (tám triệu đồng) để bán cho người khác kiếm tiền chênh lệch. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 323 của Bộ luật Hình sự là đúng.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm trật tự an toàn công cộng, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù có thời hạn và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo là cần thiết.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ về nhân thân, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng và tại phiên tòa phúc thẩm không phát sinh thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào khác. Đã vậy, trong thời gian kháng cáo bản án, bị cáo còn tiếp tục phạm tội và bị bắt tạm giam nên đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã xử đối với bị cáo là có căn cứ để chấp nhận.
[3] Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 343; điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ng T P (tên gọi khác: C H) và giữ nguyên bản án sơ thẩm:
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Ng T P (tên gọi khác: C H);
Xử phạt: Bị cáo Ng T P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
2. Bị cáo Ng T P phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 23 tháng 7 năm 2020).
Bản án 60/2020/HS-PT ngày 23/07/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 60/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/07/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về