Bản án 60/2019/HSST ngày 30/05/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 60/2019/HSST NGÀY 30/05/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 30 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 56/2019/HSST, ngày 17 tháng 5 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2019/QĐ XXST-HS ngày 17/5/2019 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Ngọc L(Tên gọi khác: không), sinh ngày 07/02/1950, tại xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Nơi ĐKHK thường trú và chổ ở hiện nay: xóm 5, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: làm ruộng; Đảng, đoàn thể: không; Quôc tich: Viêt Nam; Dân tôc: Kinh; Tôn giao: không; Trình độ học vấn: 4/10. Con ông: Nguyễn Hữu T(đã chết). Con ba: Nguyễn Thị H(đã chết). Anh, chị, em ruôt co 03 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đinh .Vơ: Hoàng Thị N, sinh năm 1955; Có 06 người con, con lớn nhất 41 tuổi, con nhỏ nhất 26 tuổi; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 05/01/2019 đến ngày 14/01/2019. Tạm giam: không. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến ngày 14/5/2019. Bị cáo hiện nay đang tại ngoại tại xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại:

1. Bà Thái Thị Đ, sinh năm 1965 (Có mặt)

Trú tại: xóm 5, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

2.Ông Nguyễn Cảnh Q, sinh năm 1961 (Có mặt)

Trú tại: xóm 2, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

3. Ông Trương Công C, sinh năm 1954 (Có mặt)

Trú tại: xóm 7, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

4. Ông Trần Văn N, sinh năm 1958(Có mặt)

Trú tại: xóm 9, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

5. Ông Trương Đăng T, sinh năm 1949 (Có mặt)

Trú tại: xóm 2, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

6. Ông Thái Hữu Đ, sinh năm 1944 (Vắng mặt)

Trú tại: xóm 9, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

7. Ông Lê Xuân D, sinh năm 1944 (Vắng mặt)

Trú tại: xóm 7, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

8.Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1933 (Vắng mặt)

Trú tại: xóm 7, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc L là thương binh loại A, hạng 2/4 đang được hưởng chế độ trợ cấp thương binh tại xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Mặc dù không có khả năng làm các thủ tục phục hồi chế độ bệnh binh, chế độ thương binh, nâng hạng thương binh, nhưng do muốn có tiền để tiêu xài nên Nguyễn Ngọc L đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền của một số người có nhu cầu là chế độ thương binh, nâng hạng thương binh, khôi phục lại chế độ thương binh bị cắt. Để thực hiện được ý đồ, Nguyễn Ngọc L dùng thủ đoạn báo mất sổ lĩnh trợ cấp hàng tháng của mình và xin mua sổ mới đã có sẵn chữ ký và dấu xác nhận của chính quyền địa phương nhưng chưa viết thông tin cá nhân. Sau khi mua được sổ Nguyễn Ngọc L đã điền thông tin vào sổ là Nguyễn Văn G trú tại xóm 15, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An, với mục đích dùng quyển sổ để đi giới thiệu mình là thương binh với những người đang có nhu cầu phục hồi chế độ bệnh binh, nâng hạng thương binh và làm mới chế độ thương binh. Biết được ông Trần Văn N trú tại xóm 9, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An đang bị tạm đình chỉ trợ cấp chế độ bệnh binh và đang muốn phục hồi chế độ, Nguyễn Ngọc L đến nhà ông N và giới thiệu tên mình là Nguyễn Văn G, hiện nay trú tại xóm 15, xã T, huyện Q, Nghệ An và nói dối với ông N là có quen biết ông D là lãnh đạo Phòng Chế độ chính sách - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An, có thể làm được phục hồi chế độ trợ cấp bệnh binh cho ông N. Do tin tưởng Nguyễn Ngọc L nên ông N đồng ý để Nguyễn Ngọc L làm phục hồi chế độ trợ cấp bệnh binh cho mình. Ông N tin tưởng Nguyễn Ngọc L nên đã giới thiệu cho Nguyễn Ngọc L bảy người khác cùng ở xã X, huyện Y có nhu cầu làm chế độ trợ cấp thương binh, nâng hạng thương binh. Khi được mọi người tin tưởng, Nguyễn Ngọc L yêu cầu mỗi người phải nộp cho Nguyễn Ngọc L các giấy tờ bao gồm: Đơn xin khám lại (gồm bệnh án và giấy ra viện), Quyết định ra quân, Quyết định bệnh binh, Đơn xin làm chế độ và số tiền lệ phí ban đầu của mỗi người là: 3.000.000đ(Ba triệu đồng), người nào đưa thêm tiền theo yêu cầu của Nguyễn Ngọc L thì sẽ được làm sớm hơn, các chi phí khác Nguyễn Ngọc L sẽ thông báo sau.

Trong khoảng thời gian từ tháng 10/2012 đến tháng 02/2014, Nguyễn Ngọc L đã về tại xã X, huyện Yên Thành nhiều lần chủ động gặp những người đã nhờ Nguyễn Ngọc L làm phục hồi chế độ bệnh binh, làm mới chế độ trợ cấp thương binh, nâng hạng thương binh để lấy tiền với lý do để Nguyễn Ngọc L vào gặp gỡ, thăm hỏi lãnh đạo trong Phòng Chế độ chính sách - Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An như đã giới thiệu từ trước, cụ thể như sau:

1. Đầu tháng 10/2012, Nguyễn Ngọc L nhận của ông Trần Văn N, sinh năm 1958 tại xóm 9, xã X, huyện Yên Thành số tiền là 2.000.000đ (Hai triệu đồng) để làm phục hồi chế độ bệnh binh.

2. Ngày 19/12/2012, đầu tháng 01/2013 và đầu tháng 02/2013, Nguyễn Ngọc L đến nhà ông Thái Hữu Đ, sinh năm 1944 tại xóm 9, xã X, huyện Y nhận tiền của ông Đ 03 lần với số tiền là 18.000.000đ(Mười tám triệu đồng) để làm phục hồi chế độ bệnh binh, Nguyễn Ngọc L viết một bản cam kết đã nhận tiền từ ông Đ, hứa nếu không làm được chế độ sẽ trả lại toàn bộ số tiền đã nhận cho ông Đ.

3. Đầu tháng 12/2012, Nguyễn Ngọc L đến nhà ông Lê Xuân D, sinh năm 1944 tại xóm 7, xã X, huyện Y nhận tiền ông D với số tiền là 7.000.000đ (Bảy triệu đồng) để làm nâng hạng thương binh.

4. Đầu tháng 11/2012 và đầu tháng 8/2013, Nguyễn Ngọc L đến nhà ông Trần Văn N tại xóm 9, xã X, huyện Y nhận tiền của ông Trương Đăng T, sinh năm 1949, trú xóm 2, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An 02 lần tiền với tổng số tiền là 8.000.000đ (Tám triệu đồng) để làm chế độ trợ cấp thương binh.

5. Ngày 03/03/2013 và ngày 07/03/2013, Nguyễn Ngọc L đến nhà ông Nguyễn Cảnh Q, sinh năm 1961 tại xóm 2, xã X, huyện Y nhận của ông Q qua 02 lần tiền, tổng số tiền là 8.500.000đ (Tám triệu năm trăm nghìn đồng) để làm chế độ trợ cấp thương binh.

6. Đầu tháng 10/2012, đầu tháng 01/2014 và đầu tháng 02/2014 Nguyễn Ngọc L đến nhà ông Trương Công C sinh năm 1954 tại xóm 7, xã X, huyện Y nhận của ông C với số tiền là 22.000.000đ (Hai mươi hai triệu đồng) để làm chế độ trợ cấp thương binh và nhận của bà Nguyễn Thị Đ để làm chế độ trợ cấp thương binh cho chồng bà Đ là ông Nguyễn Tiến B sinh năm 1930 trú xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An với số tiền là 23.000.000đ(Hai mươi ba triệu đồng).

7. Ngày 10/10/2012, ngày 17/10/2012, ngày 17/12/2012, ngày 17/04/2013, ngày 17/08/2013, ngày 17/02/2014 Nguyễn Ngọc L đến nhà ông Trần Văn N nhận của bà Thái Thị Đ, trú tại: xóm 5, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An 06 lần với tổng số tiền là 23.000.000đ(Hai mươi ba triệu đồng) để làm chế độ trợ cấp thương binh cho chồng bà Đ là ông Lê Văn T.

Tổng số tiền Nguyễn Ngọc L đã nhận của 8 người là 111.500.000đ(Một trăm mười một triệu năm trăm nghìn đồng). Sau khi lấy tiền, duy nhất Nguyễn Ngọc L viết giấy cam kết với ông Thái Hữu Đ với nội dung đã nhận tiền và cam kết sẽ làm được phục hồi chế độ trợ cấp bệnh binh cho ông Đ trong vòng 01 năm, nếu không làm được thì Nguyễn Ngọc L sẽ trả lại toàn bộ số tiền đã nhận của ông Đ, những người còn lại, Nguyễn Ngọc L chỉ hứa hẹn và cam kết bằng miệng. Sau mỗi đợt nhận tiền Nguyễn Ngọc L đã sử dụng số tiền trên vào chi tiêu cá nhân, phục vụ sinh hoạt hằng ngày.

Sau một thời gian dài chưa thấy kết quả nên ông Thái Hữu Đ và ông Nguyễn Cảnh Q đã nhiều lần gọi điện cho Nguyễn Ngọc L để hỏi về kết quả của những cam kết trước đó. Để tạo sự tin tưởng cho ông Đ và ông Q, Nguyễn Ngọc L đã làm giả các giấy tờ bao gồm: 01(một) Biên bản giám định bệnh tật mang tên Thái Hữu Đ, 01(một) Biên bản giám định thương tật mang tên Nguyễn Cảnh Q, 01(một) Quyết định nâng tỷ lệ phần trăm trợ cấp thương binh mang tên Nguyễn Cảnh Q, 01(một) Quyết định nâng tỷ lệ phần trăm trợ cấp bệnh binh mang tên Thái Hữu Đ bằng cách lấy quyết định nâng tỷ lệ phần trăm trợ cấp thương binh và biên bản giám định thương tật của Nguyễn Ngọc L sau đó chỉnh sửa họ tên thành Nguyễn Cảnh Q và Thái Hữu Đ photo thành nhiều bản đưa lại cho ông Q, ông Đ và nói đã làm xong thủ tục cho hai người này. Những người còn lại do tin tưởng nên không hỏi Nguyễn Ngọc L về kết quả của mình. Sau khi lừa lấy tiền của các bị hại thì Nguyễn Ngọc L cắt liên lạc, do Nguyễn Ngọc L sử dụng thông tin cá nhân giả với tên là Nguyễn Văn G nên các bị hại không tìm được Nguyễn Ngọc L để đòi lại tiền. Đến ngày 05/01/2019, Nguyễn Ngọc L về xã X, huyện Y chơi thì bị bảy người bị hại gồm, ông N, ông Đ, ông D, ông Q, ông C, ông T, bà Đ giữ lại và đưa đến công an xã X, huyện Y trình báo về việc bị Nguyễn Ngọc L lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau đó công an xã X đã chuyển đối tượng cho Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Yên Thành điều tra theo thẩm quyền. Tại cơ quan điều tra Nguyễn Ngọc L đã khai nhận tòa bộ hành vi phạm tội của mình và đã bồi thường toàn bộ số tiền đã nhận cho các bị hại, những người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản cáo trạng số: 66/VKS-HS-TA, ngày 13 tháng 5 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An truy tố Nguyễn Ngọc L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm e, khoản 2 Điều 139 của BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị xử lý đối với bị cáo như sau:

Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 139, điểm b, p, s khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 và Điều 47 của BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc L từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” .

- Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã được bị cáo bồi thường đầy đủ, không yêu cầu gì thêm, nên đề nghị miễn xét.

Do điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp, nên đề nghị không xử phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo như qui định tại khoản 5 Điều 139 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

- Xử lý vật chứng: Những vật chứng gồm 01(một) sổ lĩnh trợ cấp thương binh hàng tháng mang tên Nguyễn Văn G; 01(một) giấy cam kết đã nhận tiền của Nguyễn Ngọc L; 01(một) bản photo biên bản giám định bệnh tật mang tên Thái Hữu Đ; 01(một) bản photo biên bản giám định thương tật mang tên Nguyễn Cảnh Q; 01(một) bản photo quyết định nâng tỷ lệ phần trăm trợ cấp thương binh mang tên Nguyễn Cảnh Q và 01(một) bản photo quyết định nâng tỷ lệ phần trăm trợ cấp bệnh binh mang tên Thái Hữu Đ là tài liệu, vật chứng của vụ án, xét thấy không cần tiêu hủy mà cần lưu, bảo quản tại tại hồ sơ vụ án.

- Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người bị hại không tranh luận đối đáp gì bản luận tội và đề nghị của đại diện viện kiểm sát. Bị cáo, những người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất, nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Căn cứ buộc tội: Nguyễn Ngọc L biết mình không thể làm được chế độ thương binh, nâng hạng thương binh và khôi phục chế độ thương binh cho bất kỳ ai. Nhưng do muốn có tiền để phục vụ cá nhân, nên Nguyễn Ngọc L đã có ý thức từ ban đầu là sẽ lừa những người có ý định làm chế độ thương binh, nâng hạng thương binh và khôi phục chế độ thương binh đã bị cắt. Để thực hiện ý đồ lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 02 năm 2014 Nguyễn Ngọc L đã dùng thủ đoạn, khai báo mất sổ lĩnh trợ cấp hàng tháng của mình và xin mua sổ mới đã có sẵn chữ ký và dấu xác nhận của chính quyền địa phương nơi minh cư trú, nhưng chưa viết thông tin cá nhân vào sổ. Sau khi có sổ Nguyễn Ngọc L đã điền thông tin vào sổ lấy tên Nguyễn Văn G, trú tại xóm 15, xã T, huyện Q, Nghệ An không phải tên thật và nơi cư trú của Nguyễn Ngọc L với mục đích sử dụng quyển sổ này để đi giới thiệu mình là thương binh, có mối quan hệ quen biết với người có chức quyền có thể làm được chế độ thương binh, nâng hạng và khôi phục lại việc tạm đình chỉ hưởng chế độ thương binh cho những người có nhu cầu. Biết được ông Trần Văn N ở xóm 9 xã X, huyện Y đang có nhu cầu muốn khôi phục chế độ thương binh đã bị đình chỉ. Nguyễn Ngọc L tìm đến nhà ông N đã dùng lời nói gian dối, sử dụng sổ nhận chế độ tạo lòng tin đối với ông N, nên ông N đã đưa cho Nguyễn Ngọc L 2.000.000đ (Hai triệu đồng) để khôi phục chế độ thương binh. Do tin tưởng ông N đã giới thiệu cho Nguyễn Ngọc L bảy người cùng xã cũng có nhu cầu làm chế độ thương binh và nâng hạng thương binh. Sau khi gặp gở Nguyễn Ngọc L đã yêu cầu những người này giao tiền cho Nguyễn Ngọc L, cụ thể ông Thái Hữu Đ đã giao cho Nguyễn Ngọc L 18.000.000đ(Mười tám triệu đồng) để làm phục hồi chế độ bệnh binh, Nguyễn Ngọc L viết một bản cam kết đã nhận tiền, cam kết nếu không làm được thì trả lại tiền. Ông Lê Xuân D giao cho Nguyễn Ngọc L số tiền là 7.000.000đ (Bảy triệu đồng) để làm thủ tục nâng hạng chế độ thương binh.Ông Trương Đăng T đã giao cho Nguyễn Ngọc L 02 lần tiền, tổng cộng là 8.000.000đ(Tám triệu đồng) để làm chế độ trợ cấp thương binh. Ông Nguyễn Cảnh Q đã giao cho Nguyễn Ngọc L 02 lần với số tiền 8.500.000đ (Tám triệu năm trăm nghìn đồng) để làm chế độ trợ cấp thương binh. Ông Trương Công C đã giao cho Nguyễn Ngọc L với số tiền là 22.000.000đ (Hai mươi hai triệu đồng) để làm chế độ trợ cấp thương binh. Bà Nguyễn Thị Đ đã giao cho Nguyễn Ngọc L số tiền là 23.000.000đ(Hai mươi ba triệu đồng) để làm chế độ trợ cấp thương binh cho chồng là ông Nguyễn Tiến B. Bà Thái Thị Đ đã giao cho Nguyễn Ngọc L 06 lần với số tiền là 23.000.000đ (Hai mươi ba triệu đồng) để làm chế độ trợ cấp thương binh cho chồng là ông Lê Văn T. Sau khi nhận toàn bộ số tiền của những người trên Nguyễn Ngọc L không có động tác gì để làm những gì mình đã hứa với những người trên mà đã tiêu xài hết số tiền đã nhận.

Sau một thời gian dài không thấy kết quả nên ông Thái Hữu Đ và ông Nguyễn Cảnh Q đã nhiều lần gọi điện hỏi Nguyễn Ngọc L về kết quả của những cam kết trước đó. Để ông Đ và ông Q tin tưởng, Nguyễn Ngọc L đã làm giả các giấy tờ bao gồm: 01(một) Biên bản giám định bệnh tật mang tên Thái Hữu Đ, 01(một) Biên bản giám định thương tật mang tên Nguyễn Cảnh Q, 01(một) Quyết định nâng tỷ lệ phần trăm trợ cấp thương binh mang tên Nguyễn Cảnh Q, 01(một) Quyết định nâng tỷ lệ phần trăm trợ cấp bệnh binh mang tên Thái Hữu Đ bằng cách lấy quyết định nâng tỷ lệ phần trăm trợ cấp thương binh và biên bản giám định thương tật của mình sau đó chỉnh sửa họ tên thành Nguyễn Cảnh Q và Thái Hữu Đ photo thành bản mới rồi đưa lại cho ông Q, ông Đ và nói đã làm xong thủ tục cho hai người này. Thấy vậy những người còn lại tin tưởng, nên không hỏi Nguyễn Ngọc L về kết quả của mình. Sau đó, Nguyễn Ngọc L cắt liên lạc đối với những người bại hại, do Nguyễn Ngọc L sử dụng thông tin cá nhân giả với tên là Nguyễn Văn G nên những người bị hại không tìm được Nguyễn Ngọc L để đòi lại tiền. Ngày 05/01/2019, Nguyễn Ngọc L về xã X, huyện Y chơi thì bị ông N, ông Đ, ông D, ông Q, ông C, ông T và bà Đ giữ lại và đưa đến công an xã X, huyện Y trình báo về việc bị Nguyễn Ngọc L lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau đó Công an xã X, huyện Y đã bàn giao Nguyễn Ngọc L cho Công an huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Trên cơ sở lời khai nhận của bị cáo, những người bị hại, vật chứng thu được và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được. Xác định trong thời gian từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 02 năm 2014 Nguyễn Ngọc L đã thực hiện 8 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các công dân xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An thông qua hành vi là sử dụng tài liệu giả, nói dối với những người có nhu cầu làm chế độ thương binh, khôi phục chế độ thương binh và nâng hạng thương binh là Nguyễn Ngọc L có thể làm được chế độ cho họ. Thông qua hành vi này Nguyễn Ngọc L đã chiếm đoạt tổng số tiền của các bị hại là 111.500.000 đồng. Cơ quan điều tra, điều tra viên xác định Nguyễn Ngọc L phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo qui định tại Điều 139 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Nên Cơ quan điều tra, điều tra viên, kiểm sát viên đã tiến hành các hoạt động tố tụng theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự như quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lấy lời khai, hỏi cung bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can, đồng thời thu thập các tài liệu chứng cứ liên quan để làm cơ sở để xử lý đối với Nguyễn Ngọc L theo qui định tại Điều 139 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Căn cứ vào kết quả điều tra, những hành lừa đảo do bị cáo thực hiện, số tiền do bị cáo chiếm đoạt và các chứng cứ, tài liệu khác do cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An truy tố Nguyễn Ngọc L, tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điềm e khoản 2 Điều 139 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là đúng mức.

[2] Đánh giá tính chất vụ án và những hành vi bị cáo đã thực hiện: Đây và một vụ án thuộc loại án rất nghiêm trọng, những hành lừa đảo chiếm đoạt tài sản do bị cáo Nguyễn Ngọc L thực hiện là rất nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh xem thường pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền về tài sản của công dân được nhà nước và pháp luật bảo vệ. Bị cáo có năng lực pháp luật, năng lực hành vi đầy đủ, nên bị cáo nhận thức và hiểu được hành vi của mình là vi phạm pháp luật bắt được sẽ bị xử lý nghiêm.Tuy biết việc nhưng hám lợi, thích thụ hưởng, nên bị cáo đã coi thường pháp luật liều lĩnh đã thực hiện hành vi phạm tội, nay phải đứng trước phiên tòa chờ phán quyết của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy rằng cần xử lý nghiêm minh đối với bị cáo để giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã bồi thường thiệt hại đầy đủ cho các bị hại, những người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bản thân bị cáo là thương binh hạng 2/4, là người có công với nước được tặng Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng ba, Huy chương kháng chiến hạng nhì. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm b, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

-Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội nhiều lần theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Sau khi trừ đi tình tiết tăng nặng thì bị cáo đang còn nhiều tình tiết giảm nhẹ. Mặc dù bị cáo đang có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng xét tính chất vụ án và những hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản do bị cáo thực hiện đã gây dư luận xấu, nên cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để nhà nước cải tạo giáo dục bị cáo. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nên cần áp dụng Điều 47 của BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 để xử dưới khung hình phạt đối với bị cáo, chỉ cần xử phạt bị cáo với mức án 01 năm tù cũng đủ nghiêm.

Do điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, thu nhập của bị cáo chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp, nên đề nghị không xử phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo như qui định tại khoản 5 Điều 139 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường đầy đủ cho các bị hại, những người bị hại không yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

[4] Vật chứng: 01(một) sổ lĩnh trợ cấp thương binh hàng tháng mang tên Nguyễn Văn G; 01(một) giấy cam kết đã nhận tiền của Nguyễn Ngọc L; 01(một) bản photo Biên bản giám định bệnh tật mang tên Thái Hữu Đ; 01(một) bản photo Biên bản giám định thương tật mang tên Nguyễn Cảnh Q; 01(một) bản photo Quyết định nâng tỷ lệ phần trăm trợ cấp thương binh mang tên Nguyễn Cảnh Q và 01(một) bản photo Quyết định nâng tỷ lệ phần trăm trợ cấp bệnh binh mang tên Thái Hữu Đ là tài liệu, vật chứng không thiết tiêu hủy mà cần bảo quản, lưu giữ tại hồ sơ vụ án.

[5] Về Án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào điểm e khoản 2 Điều 139 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, điểm b, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 và Điều 47 của BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc L 01(Một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian bị bắt tạm giữ từ ngày 05/01/2019 đến ngày 14/01/2019.

2. Về Án phí: Căn cứ vào Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc L phải nộp 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo, những người bị hại có mặt được quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Những người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 60/2019/HSST ngày 30/05/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:60/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;