Bản án 60/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 60/2019/HS-ST NGÀY 21/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 21 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Thanh T, sinh năm 1995 tại tỉnh Vĩnh Long. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 1, xã A, huyện B, tỉnh Vĩnh Long; Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: thợ sơn nước; trình độ văn hoá 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam.; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Anh T1 và bà Trần Thị D; không có vợ con; tiền án: không; tiền sự: không; Bị bắt, tạm giam từ ngày 31/10/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 31/10/2018, công an xã C, huyện Bình Chánh tuần tra đến trước địa chỉ nhà F4/15D ấp 6C, xã C, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện Trần Thanh T điều khiển xe môtô biển số 94R1-2160 chở Nguyễn Chí T1 ngồi phía sau có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong túi quần bên trái phía trước T đang mặc có 04 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu mà T khai nhận là ma túy tổng hợp (thường gọi là hàng đá) dùng để sử dụng. Lực lượng công an tiến hành thu giữ vật chứng và đưa các đối tượng về trụ sở Công an xã C, huyện Bình Chánh lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Qua kiểm tra, T và T1 đều có sử dụng ma túy.

Kết luận giám định số 1784/KLGĐ-H ngày 09/11/2018 của Phòng Kỷ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6879g, loại Methamphetamine.

Tai Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Bình Chánh cũng như tại phiên tòa Trần Thanh T khai nhận: T sử dụng ma túy từ tháng 4/2018. Ngày 31/10/2018 T sử dụng số điện thoại 0765795352 điện thoại cho H (không rõ lai lịch) qua số điện thoại 0707195521 đặt mua 800.000 đồng ma túy, H đồng ý và hẹn địa điểm giao dịch tại hẻm quán cà phê MiMi phường D, quận E, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, T điều khiển xe môtô biển số 94R1-2016 đến điểm hẹn ma túy. Sau khi mua được ma túy, T cất 04 gói ma túy vào trong túi quần bên trái phía trước với mục đích mang về nhà sử dụng và điều khiển xe máy chạy ra đầu hẻm thì gặp Nguyễn Chí T1(là bạn của T) đang đi bộ nên T rủ T1 qua nhà người bạn cũ của T chơi, trên đường đi thì bị công an phát hiện bắt quả tang. T đã mua ma túy của H 02 lần, lần đầu vào ngày 24/10/2018 mua của H 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng, lần 02 vào ngày 31/10/2018 thì bị bắt.

Vật chứng thu giữ: 04 (bốn) gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu đã giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6879g, loại Methamphetamine; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202 có số Imel 357401/04/509733/3 cùng sim cắt. 01 xe môtô biển số 94R1-2160, số khung RN8DCJGN88B020669, số  máy: VLF1P53FMIB80020669.

Tại bản cáo trạng số 62/CT-VKS ngày 20 tháng 2 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Thanh T từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thanh T khai nhận hành vi như trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà, bị cáo Trần Thanh T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình giống như nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do công an xã C, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh lập lúc 20 giờ 40 phút ngày 31/10/2018 cùng các chứng cứ, tài liệu, tang vật có trong hồ sơ vụ án và kết quả thẩm tra tại phiên tòa. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, vì muốn có ma túy sử dụng nên ngày 31/10/2018 bị cáo mua của đối tượng tên H 04 gói ma tuý tổng hợp để sử dụng thì bị bắt quả tang. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ bị bắt, thông qua kết quả giám định có tổng trọng lượng 0,6879 gram ma túy, loại Methaphetamine. Số lượng ma túy này bị cáo khai tàng trữ để sử dụng. Ngoài ra, bị cáo khai nhận mua ma túy của H nhiều lần tàng trữ để sử dụng, tuy nhiên ngoài lời khai nhận của bị cáo thì không còn chứng cứ nào khác để xác định bị cáo phạm tội từ hai lần trở lên. Do đó, hành vi của bị cáo Trần Thanh T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2] Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Chính vì vậy mà nhà nước ta đã nghiêm cấm việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý. Những người có hành vi vi phạm, tuỳ tính chất, mức độ đều bị xử lý bằng pháp luật hình sự.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: bị cáo đã đủ tuổi trưởng thành, nhận thức được ma tuý là chất độc hại, một loại hàng đặc biệt nhà nước độc quyền quản lý, bất kỳ ai vi phạm đến ma tuý, tuỳ tính chất mức độ đều bị xử lý bằng luật hình sự. Song vì muốn có ma túy thỏa mãn cơn nghiện, không tuân thủ pháp luật nên bị cáo đã dấn thân vào con đường phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án này. Hội đồng xét xử cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội; đồng thời buộc bị cáo nộp phạt bổ sung một khoản tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Đối với người bán ma túy cho bị cáo là đối tượng tên H do không rõ lai lịch nên không có cơ sở để xử lý trong vụ án này.

[6] Đối với Nguyễn Chí T1: T1 cũng là đối tượng nghiện ma túy. Quá trình điều tra xác định ngày 31/10/2018 khi T chở T1 đi thì Thức không biết T đang tàng trữ ma túy trong người và không liên quan đến hành vi phạm tội của T nên không có cơ sở để xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh chuyển đối tượng T1 cho Công an xã C, huyện Bình Chánh đưa đi cai nghiện tại cơ sở xã hội Nhị Xuân theo Quyết định số 1047/QĐ-UBND ngày 01/11/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã C, huyện Bình Chánh.

[7] Về vật chứng vụ án:

[8] 04 (bốn) gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu đã giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6878g, loại Methamphetamine (hiện để trong một gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1784/18 có chữ ký ghi tên Phan Hồng S, Trần Văn T2, Trần Thiện T3, Trần Thanh T cùng chữ ký niêm phong của giám định viên Trần Đình H2 và chữ ký ghi tên cán bộ Dương Mạnh Cường), xét đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia có số Imel 357401/04/509733/3 cùng sim cắt. Đây là tài sản của bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên tịch thu và nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[10] 01 (một) xe môtô biển số 94R1-2160, số khung RN8DCJGN88B020669, số máy: VLF1P53FMIB80020669. Qua xác minh tài sản này do ông Nguyễn Văn V đứng tên chủ sở hữu. Ông V xác nhận đã bán xe trên cho người bà con bên vợ nhưng không nhớ họ tên. Qua tra cứu xe máy trên không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng, qua giám định không đủ căn cứ kết luận biển số 94R1-2160 là thật hay giả, số khung, số máy xe không thay đổi. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn chưa có người liên hệ làm việc. Bị cáo T khai mua xe này của một người bạn làm chung (không rõ lai lịch) vào năm 2018, khi mua có làm giấy mua bán bằng giấy tay nhưng bị cáo đã làm thất lạc, bị cáo sử dụng xe làm phương tiện đi lại và phạm tội nên tịch thu và nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[12] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo cũng như xử lý vật chứng vụ án và chấp nhận đề nghị của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[13] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử phạt bị cáo Trần Thanh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/10/2018.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.

Về vật chứng:

- Tịch thu và tiêu hủy: 04 (bốn) gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu đã giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6878g, loại Methamphetamine (hiện để trong một gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1784/18 có chữ ký ghi tên Phan Hồng S, Trần Văn T2, Trần Thiện T3, Trần Thanh T cùng chữ ký niêm phong của giám định viên Trần Đình H và chữ ký ghi tên cán bộ Dương Mạnh C)

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia có số Imel 357401/04/509733/3 cùng sim cắt; 01 (một) xe môtô biển số 94R1-2160, số khung RN8DCJGN88B020669, số máy: VLF1P53FMIB80020669. 

(Tất cả vật chứng trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/3/2019 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh)

Về án phí : Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo : Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 60/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;