Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 26/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 60/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 28/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D; địa chỉ: Thôn 5, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu B; địa chỉ: Thôn 5, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26 tháng 10 năm 2018 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh Nguyễn Hữu B kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng (Giấy chứng nhận kết hôn số 47 ngày 27 tháng 12 năm 2006). Sau khi cưới, vợ chồng về sinh sống tại thôn 5, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, anh B nghi ngờ chị có quan hệ ngoại tình dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau. Do mẫu thuẫn vợ chồng đã sống ly thân. Chị D xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị D đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh B .

- Về con chung: Chị D và anh B có hai con chung tên là Nguyễn Phú M , sinh ngày 03 tháng 12 năm 2007 và Nguyễn Thị Quý A , sinh ngày 21 tháng 8 năm 2014. Hiện nay các con đang ở cùng với anh B. Khi ly hôn chị D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả hai con chung. Trường hợp không được nuôi cả hai con, chị D đề nghị được trực tiếp nuôi con chung Nguyễn Thị Quý A . Về cấp dưỡng nuôi con chung để hai bên tự thỏa thuận giao nhận với nhau, chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị D và anh B có tài sản chung, nhưng chưa yêu cầu giải quyết trong vụ án này, để vợ chồng tự thỏa thuận với nhau, nếu không xong sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau.

Tại văn bản ghi ý kiến ngày 25 tháng 01 năm 2019 và các lời khai tại Tòa án, bị đơn là anh Nguyễn Hữu B trình bày: Anh B công nhận lời trình bày của chị D về điều kiện, thời gian và nơi đăng ký kết hôn là đúng. Anh B trình bày mâu thuẫn vợ chồng là do anh thấy tình cảm của chị D dành cho anh ít, anh nghi ngờ vợ không có tình cảm với mình nên thường xuyên xảy ra bất hòa. Chị D có đơn xin ly hôn, anh B đồng y ly hôn. Về con chung: Anh B đề nghị được trực tiếp nuôi cả hai con chung và yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Nếu như được nuôi một con, anh B không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Anh B trình bầy vợ chồng có tài sản chung là nhà đất ở xã Đ, anh B đề nghị toàn bộ tài sản này sẽ chuyển lại cho con trai Nguyễn Phú M quản lý sử dụng.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng pháp luật. Tòa án đã xác định đúng thẩm quyền giải quyền vụ án, xác định đúng quan hệ pháp luật và những người tham gia tố tụng. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; chấp nhận yêu cầu xin ly hôn nguyên đơn. Về con chung giao con Nguyễn Thị Quý A cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng; giao con Nguyễn Phú M cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng; cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Chị D và anh B không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai. Về tài sản chung: Sẽ được giải quyết bằng 01 vụ án khác. Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Hữu B đều thống nhất về điều kiện kết hôn, thời gian kết hôn và có hai con chung như đã trình bày và phù hợp với bản sao giấy đăng ký kết hôn, bản sao giấy khai sinh của con chung mà chị D đã giao nộp cho Tòa án. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện vợ chồng chị D và anh B có mâu thuẫn và đã sống ly thân. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng khó có khả năng đoàn tụ. Chị D và anh B đều có đủ điều kiện nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Hữu B cư trú tại xã Đ, huyện T , thành phố Hải Phòng. Căn cứ Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có thẩm quyền xét xử vụ án này.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh B đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 47 ngày 27 tháng 12 năm 2006 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của các đương sự, tài liệu điều tra xác minh đã xác định được mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Hiện nay vợ chồng đã sống ly thân, chị D kiên quyết xin ly hôn vì tình cảm vợ chồng không còn. Anh B đồng ý ly hôn với chị D. Do đó, căn cứ vào Điều 51, Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị D và anh B .

[3]. Về con chung: Chị D và anh B có hai con chung là Nguyễn Phú M ,sinh ngày 03 tháng 12  năm 2007 và Nguyễn Thị Quý A, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2014. Chị D và anh B đều có nguyện vọng được nuôi con. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy, chị D và anh B đều có khả năng nuôi con; chị D có nguyện vọng được nuôi con tên Nguyễn Thị Quý A vì cháu hiện nay còn nhỏ và là con gái. Vì vậy giao con Nguyễn Thị Quý A cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng; giao con Nguyễn Phú M cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị D và anh B trình bày nếu mỗi người nuôi một con thì sẽ không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Chị D đề nghị để hai bên tự thỏa thuận giải quyết với nhau, nếu không được sẽ đề nghị Tòa án giải quyết sau. Tại phiên tòa anh B có yêu cầu tài sản chung của hai vợ chồng là nhà và đất ở xã Đ, đề nghị chuyển tên cho con trai là Nguyễn Phú M. Chị D không đồng ý tặng cho tài sản cho cháu Nguyễn Phú M. Yêu cầu chia tài sản chung chỉ được giải quyết khi có yêu cầu trước khi đưa vụ án ra xét xử và phải nộp đơn, nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định pháp luật. Tại phần tranh luận, chị D có yêu cầu tài sản chung sẽ để giải quyết trong vụ án khác, anh B không có ý kiền gì. Vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết tài sản chung trong vụ án này. Các đương sự có yêu cầu sẽ nộp đơn giải quyết bằng một vụ án khác.

[6]. Về án phí: Chị Dịu phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 35, Điều 39, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Hữu B .

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị D trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Thị Quý A , sinh ngày 21 tháng 8 năm 2014 cho đến khi con đủ mười tám tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cho anh Nguyễn Hữu B trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Phú M , sinh ngày 03 tháng 12 năm 2007 cho đến khi con đủ mười tám tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 000261 ngày 10 tháng 01 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị D đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 26/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:60/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;