TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CĐ, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 60/2019/DS-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN ĐỔI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C Đ, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 308/2019/TLST-DS ngày 04 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp “Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Võ Văn D, sinh năm: 1968 và bà Nguyễn Thị Thiên L, sinh năm: 1970 (Ông D và bà L là vợ chồng);
Cùng địa chỉ: khu 1A, thị trấn C Đ, huyện C Đ, tỉnh Long An.
Bà Nguyễn Thị Thiên L ủy quyền cho ông Võ Văn D (Văn bản ủy quyền ngày 14/6/2019).
- Bị đơn: Ông Võ Văn N, sinh năm: 1955 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm: 1958 ( Ông N và bà C là vợ chồng);
Cùng địa chỉ: Ấp R, xã TL, huyện C Đ, tỉnh Long An.
Bà Nguyễn Thị C ủy quyền cho ông Võ Văn N ( Văn bản ủy quyền ngày 14/10/2019)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 29/5/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Võ Văn D và bà Nguyễn Thị Thiên L do ông D đại diện theo ủy quyền trình bày:
Vợ chồng ông D, bà L có thửa đất số 427, TBĐ số 3, diện tích 2.970m2, loại đất trồng lúa nước do UBND huyện C Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 968775 ngày 27/02/2014 cho ông D và bà L cùng đứng tên. Nguồn gốc thửa đất do ông D và bà L nhận hoán đổi của ông Trần Ngọc Gần trước năm 2004, nhưng đến năm 2014 mới làm xong thủ tục chuyển đổi đất với ông Gần để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ông Võ Văn N có thửa đất số 273, TBĐ số 3, diện tích 2.229m2 loại đất trồng lúa nước do UBND huyện C Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 015808 ngày 12/6/2013 cho ông Võ Văn N đứng tên. Do thửa đất số 427 của ông D giáp ranh với toàn bộ diện tích đất thổ, vườn của ông N và thửa đất số 273 của ông N giáp ranh với các diện tích đất canh tác làm lúa khác của ông D. Nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu sử dụng đất của hai bên thuận tiện, vào năm 2004 giữa vợ chồng ông D, bà L và vợ chồng ông N, bà C đã tự nguyện thỏa thuận bằng miệng chuyển đổi đất cho nhau, cụ thể thỏa thuận: vợ chồng ông D đổi khoảng 900m2 đất tại thửa 427 cho ông N sử dụng, để lấy 900m2 tại thửa đất số 273. Kể từ năm 2004 giữa ông D và ông N đã sử dụng diện tích đã chuyển đổi cho nhau để trồng lúa và hai bên cũng không đặt vấn đề bồi hoàn chênh lệch. Sau khi thỏa thuận chuyển đổi đất, giữa ông D và ông N có nhờ người kéo dây đo thử diện tích và cắm mốc sử dụng ổn định từ năm 2004 cho đến nay. Trong suốt quá trình sử dụng đất, phần diện tích ông N chuyển đổi cho ông D vẫn giữ nguyên hiện trạng, ông D không bang bờ, lấn ranh hay bị ai lấn chiếm.
Căn cứ vào Mảnh trích đo địa chính số 08TL – 2019 và 09TL – 2019 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng phú đo vẽ ngày 10/9/2019, được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C Đ phê duyệt ngày 18/9/2019 thể hiện: Diện tích đất ông D chuyển đổi cho ông N là 713,5m2, diện tích đất ông N chuyển đổi cho ông D là 867,4m2, như vậy có sự chênh lệch diện tích 153,9m2 .
Do vợ chồng ông D nhận đất sử dụng từ năm 2004 đến nay đã ổn định nên yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông N, bà C tiếp tục hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất mà các bên đã thỏa thuận miệng vào năm 2004 để vợ chồng ông D được làm thủ tục đứng tên đối với diện tích 867,4m2 thuộc một phần thửa 273. Đối với diện tích đất chênh lệch có vị trí tại khu B theo mảnh trích đo số 08TL – 2019 vợ chồng ông D tự nguyện hoàn trả 50% giá trị đất cho ông N, bà C theo giá mà Chứng thư thẩm định giá Hồng Đức đã cung cấp là: (153,9m2 x 780.000) x ½ = 60.021.000 đồng.
Bị đơn ông Võ Văn N và bà Nguyễn Thị C do ông N đại diện theo ủy quyền trình bày trong qua trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa như sau:
Giữa ông N và ông D có mối quan hệ họ hàng với nhau. Vào năm 2013 ông N được Ủy ban nhân dân huyện C Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 015808 ngày 12/6/2013 thửa đất số 273, TBĐ số 3, diện tích 2.229m2 loại đất trồng lúa nước. Nguồn gốc thửa đất do nhận chuyển nhượng của bà Đặng Thị Nhỏ từ trước năm 2004 nhưng đến năm 2013 mới làm xong thủ tục chuyển nhượng để được đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do thửa đất số 427 của ông D giáp ranh với toàn bộ diện tích đất thổ, vườn và nhà của ông N và thửa đất số 273 của ông N giáp ranh với các diện tích đất canh tác làm lúa khác của ông D. Để thuận lợi cho việc canh tác, sử dụng đất thì vào năm 2004 giữa vợ chồng ông N và vợ chồng ông D có thỏa thuận bằng miệng chuyển đổi đất cho nhau, cụ thể thỏa thuận: vợ chồng ông D đổi khoảng 900m2 đất tại thửa 427 cho ông N sử dụng, để lấy 900m2 tại thửa đất số 273 và hai bên cũng không đặt vấn đề bồi hoàn chênh lệch. Sau khi thỏa thuận chuyển đổi đất, giữa ông D và ông N có nhờ người kéo dây đo thử diện tích và cắm mốc sử dụng ổn định từ năm 2004 cho đến nay. Lúc ông D giao đất cho ông N, ông N có biết diện tích đất ông D giao bị ít hơn so với diện tích đất mà ông giao cho ông D sử dụng nhưng N rằng đất không có giá và chỗ bà con nên không yêu cầu giao thêm. Trong suốt quá trình sử dụng đất, phần diện tích ông D chuyển đổi cho ông N vẫn giữ nguyên hiện trạng, ông N không bang bờ, lấn ranh hay bị ai lấn chiếm.
Nay ông D, bà L khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông N tiếp tục hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất mà các bên đã thỏa thuận vào năm 2004 để ông D và bà L được làm thủ tục đứng tên đối với diện tích 867,4m2 m2 thuộc thửa 273 thì ông không đồng ý. Ông chỉ đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển đổi đối với phần diện tích đất 713,5m2 như ông D đã đổi cho ông, còn phần diện tích đất ông giao cho ông D chênh lệch là 153,9m2 có vị trí khu B theo mảnh trích đo số 08TL – 2019 thì ông yêu cầu ông D phải trả lại cho ông. Ông D và bà L hoàn trả 50% giá trị đất đối với diện tích đất chênh lệch cho ông thì ông cũng không đồng ý.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C Đ, tỉnh Long An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất vợ chồng ông D và vợ chồng ông N thỏa thuận miệng vào năm 2004, xét về hình thức hợp đồng chuyển đổi QSDĐ phải được công chứng chứng thực theo quy định tại Điều 126 Luật đất đai 2003, các bên chỉ hoán đổi bằng miệng vi phạm về mặt hình thức nhưng các bên đã giao đất sử dụng ổn định không có tranh chấp gì từ năm 2004 đến năm 2018, trên thực tế các bên đã thực hiện xong giao dịch chỉ chưa thực hiện đăng ký QSDĐ theo quy định pháp luật, do đó về mặt pháp lý giao dịch này đang được thực hiện, cần căn cứ điểm b khoản 1 Điều 689 Bộ luật Dân sự 2015 để giải quyết giao dịch trên theo quy định BLDS 2015, xét thấy các bên thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng đã chuyển giao diện tích đất cho nhau sử dụng ổn định vì vậy hợp đồng không bị vô hiệu theo khoản 2 Điều 129 BLDS 2015.
Khi thực hiện việc hoán đổi đất các bên tự nguyện thỏa thuận không ai ép buộc và đồng ý với sự thỏa thuận này thể hiện qua việc hoán đổi đất đã xảy ra từ trước tới nay mà không có tranh chấp. Ông N cũng thừa nhận nhằm để thuận lợi cho việc canh tác, do phần đất này của ông D sát ranh với diện tích đất thổ vườn của ông, tiện lợi cho việc chăn nuôi gà vịt. Năm 2004 ông tự nguyện thỏa thuận hoán đổi đất cho nhau, có nhờ người đứng ra đo và tự cắm ranh. Khi ông D giao đất cho ông thì thấy thửa ruộng của ông D nhỏ hơn thửa ruộng của ông giao cho ông D nhưng do thấy đất không có giá trị lớn nên không yêu cầu ông D phải trả đất cho ông. Do đó, vợ chồng ông D đã đồng ý với việc hoán đổi đất mà không có ý kiến phản đối, xem như chấp nhận thực hiện Hợp đồng hoán đổi QSDĐ nên có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của ông D. Vợ chồng D muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng hoán đổi QSDĐ mà các bên đã thỏa thuận vào năm 2004 để được đứng tên QSDĐ, nhưng vợ chồng N chỉ đồng ý thực hiện Hợp đồng hoán đổi với diện tích 713,5m2, đối với phần diện tích dư ra thuộc khu B 153,9m2 theo Mảnh trích đo thì yêu cầu ông D, bà L phải trả lại nhưng ông N không có làm đơn yêu cầu tòa án giải quyết phần đất dư ra, do đó không xem xét đến yêu cầu này.
Tại Biên bản hòa giải ngày 15/10/2019 và tại phiên tòa hôm nay, ông D đồng ý hoàn ½ giá trị với phần diện tích đất chênh lệch mà ông được sử dụng nhiều hơn theo giá của Chứng thư thẩm định giá số 181 ngày 11/10/2019 của công ty cổ phần dịch vụ và tư vấn Hồng Đức là khu B diện tích 153,9 m2 tương ứng với số tiền trị giá 60.021.000 đ, đề nghị Tòa án ghi nhận sự tự nguyện này
Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh luận của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, nhận thấy yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là có cơ sở để chấp nhận.
Về kiến nghị, khắc phục sai phạm: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ lời trình bày của các đương sự; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa; đối chiếu với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai, khách quan tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa ông Võ Văn D và bà Nguyễn Thị Thiên L đối với vợ chồng ông Võ Văn N, bà Nguyễn Thị C là “Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại các Điều 26, 35 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung: Vợ chồng ông D, bà L yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông N, bà C tiếp tục hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất thỏa thuận miệng vào năm 2004 để vợ chồng ông D được làm thủ tục đứng tên đối với diện tích 867,4m2 thuộc thửa 273. Đối với diện tích đất chênh lệch có vị trí tại khu B theo mảnh trích đo số 08TL – 2019 vợ chồng ông D đồng ý hoàn trả 50% giá trị đất cho ông N, bà C theo giá mà Chứng thư thẩm định giá Hồng Đức đã cung cấp là: (153,9m2 x 780.000) x ½ = 60.021.000 đồng.
[2.1] Về hình thức của Hợp đồng:
Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông D với vợ chồng ông N chỉ là hợp đồng miệng, các bên không lập hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất, không làm thủ tục công chứng, chứng thực và sang tên đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với giao dịch trên. Do đó hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông D và vợ chồng ông N chưa tuân thủ quy định về hình thức của giao dịch nhưng nội dung không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Quá trình giải quyết vụ án, cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận việc thỏa thuận chuyển đổi quyền sử dụng đất của hai bên đều là tự nguyện, nhằm thuận lợi cho việc canh tác, sử dụng đất của cả hai bên. Cả ông D và ông N đã giao đất chuyển đổi đất cho nhau sử dụng ổn định từ năm 2004 cho đến nay, quá trình sử dụng không xảy ra tranh chấp, diện tích đất chuyển đổi đã phân chia ranh giới rõ ràng với phần diện tích đất còn lại của thửa đất. Vợ chồng ông D yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất và vợ chồng ông N cũng đồng ý là phù hợp với Điều 105,106 Luật Đất Đai 2003 và Điều 695, 696 Bộ Luật Dân Sự 2005 (Điều 500, 501, 502 của Bộ luật Dân sự 2015). Hội đồng xét xử xét thấy hợp đồng này không bị vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật dân sự 2015, yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất của ông D và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.
[2.2] Về nội dung thỏa thuận chuyển đổi: Xét: Năm 2004, vợ chồng ông D, bà L và vợ chồng ông N, bà C đã tự nguyện thỏa thuận bằng miệng chuyển đổi đất cho nhau, khi chuyển đổi đất cho nhau, các bên có nhờ người kéo dây đo hạo diện tích và có cắm ranh phần diện tích đổi cho nhau với phần diện tích còn lại của thửa đất. Quá trình sử dụng đất cả nguyên đơn và bị đơn đều xác định giữ nguyên hiện trạng, không bang bờ, lấn ranh. Tại Công văn số 273/CV – UBND ngày 22/10/2019 của Ủy ban nhân dân xã TL cũng thể hiện từ trước năm 2004 và từ năm 2004 đến thời điểm hiện tại không mở rộng chiều ngang lòng kênh N9 nên không có việc Nhà nước mở rộng lòng kênh N9 lấn vô bờ ruộng chiều ngang khoảng 0,5m làm giảm diện tích đất mà ông D đổi cho ông N. Tại biên bản hòa giải ngày 15/10/2019 của TAND huyện C Đ và tại phiên tòa ông N trình bày: Khi ông D giao đất cho ông ông thấy thửa ruộng của ông D giao cho ông nhỏ hơn thửa ruộng mà ông giao cho ông D sử dụng nhưng do thấy đất không có giá và chỗ bà con nên không yêu cầu giao thêm ,không yêu cầu ông D phải trả đất cho ông và cũng không yêu cầu ông D, bà L hoàn giá trị chênh lệch. Do đó yêu cầu giữ nguyên hiện trạng đất canh tác đã chuyển đổi của ông D, cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận. Ông N yêu cầu ông D phải trả lại diện tích chênh lệch 153,9m2 là không có căn cứ chấp nhận.
[2.3] Về bồi hoàn giá trị diện tích đất hoán đổi chênh lệch là 153,9m2 Căn cứ vào Mảnh trích đo địa chính số 08TL – 2019 và 09TL – 2019 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng phú đo vẽ ngày 10/9/2019, được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C Đ phê duyệt ngày 18/9/2019 thể hiện: Diện tích đất ông D hoán đổi cho ông N là 713,5m2, diện tích đất ông N hoán đổi cho ông D là 867,4m2, chênh lệch diện tích 153,9m2 . Xét thấy khi hai bên thỏa thuận hoán đổi đất cho nhau cả hai không đặt ra vấn đề bồi hoàn giá trị chênh lệch, kể cả khi ông N thấy đất mình giao cho ông D nhiều hơn đất ông D giao cho mình nhưng ông N cũng không có yêu cầu ông D trả đất thừa hay trả giá trị chênh lệch. Và quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa ông N cũng không yều cầu ông D, bà L hoàn trả giá trị đất chênh lệch nên Hội đồng xét xử không xét. Tuy nhiên tại phiên tòa ông D tự nguyện hoàn lại 50% giá trị đất cho ông N, bà C theo giá mà Chứng thư thẩm định giá Hồng Đức đã cung cấp là: (153,9m2 x 780.000) x ½ = 60.021.000 đồng nên hội đồng xét xử ghi nhận.
[3] Về chi phí tố tụng gồm chi phí đo đạc, định giá, xem xét, thẩm định tại chỗ: Tổng cộng số tiền 11.400.000 đồng vợ chồng ông D, bà L phải chịu 5.700.000 đồng và đã nộp xong; vợ chồng ông N, bà C phải chịu 5.700.000 đồng. Ông D, bà L đã tạm ứng trước nên buộc vợ chồng ông N, bà C phải hoàn trả 5.700.000 đồng cho ông D, bà L.
[4] Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản L và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì ông N, bà C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch. Do ông N, bà C trên 60 tuổi nên được miễn không phải nộp. Ông D, bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền 60.021.000 đồng x 5% = 3.001.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điều 129, 500, 501, 502 của Bộ luật Dân sự 2015; các điều 105,106 của Luật Đất đai 2003;
Áp dụng các điều 26, 35, 147, và Điều 165 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản L và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn D, bà Nguyễn Thị Thiên L về việc “ Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất” với ông Võ Văn N, bà Nguyễn Thị C.
Công nhận “hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất” giữa ông Võ Văn D, bà Nguyễn Thị Thiên L với ông Võ Văn N, bà Nguyễn Thị C đã xác lập năm 2004.
Ông Võ Văn D, bà Nguyễn Thị Thiên L được tiếp tục sử dụng 867,4m2 đất thuộc một phần thửa 273, TBĐ số 3, có vị trí tại khu A, khu B theo Mảnh trích đo địa chính số 08TL – 2019 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng phú đo vẽ ngày 10/9/2019, được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C Đ phê duyệt ngày 18/9/2019.
Ông Võ Văn N, bà Nguyễn Thị C được tiếp tục sử dụng 713,5m2 đất thuộc một phần thửa 427, TBĐ số 3, có vị trí tại khu A, khu B theo Mảnh trích đo địa chính số 09TL – 2019 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng phú đo vẽ ngày 10/9/2019, được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C Đ phê duyệt ngày 18/9/2019.
Ông Võ Văn N, bà Nguyễn Thị C được quyền liên hệ cơ quan Nhà nước về quản L đất đai để làm thủ tục đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 713,5m2 đất thuộc một phần thửa 427, TBĐ số 3 và điều chỉnh giảm 867,4m2 đất thuộc một phần thửa 273, TBĐ số 3 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 015808 ngày 12/6/2013 do UBND huyện C Đ cấp giấy cho ông Võ Văn N đứng tên theo quy định của pháp luật về đất đai.
Ông Võ Văn D, bà Nguyễn Thị Thiên L được quyền liên hệ cơ quan Nhà nước về quản L đất đai để làm thủ tục đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 867,4m2 đất thuộc một phần thửa 273, TBĐ số 3 và điều chỉnh giảm 713,5m2 đất thuộc một phần thửa 427, TBĐ số 3, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 968775 ngày 27/02/2014 do UBND huyện C Đ cấp cho ông D và bà L cùng đứng tên theo quy định của pháp luật về đất đai.
2. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Võ Văn D, bà Nguyễn Thị Thiên L: ông Võ Văn D, bà Nguyễn Thị Thiên L có nghĩa vụ hoàn lại cho ông Võ Văn N, bà Nguyễn Thị C số tiền 60.021.000 đồng ( Sáu mươi triệu không trăm hai mươi mốt ngàn đồng).
3 Về chi phí tố tụng gồm chi phí đo đạc, định giá, thẩm định tại chỗ: Buộc vợ chồng ông N, bà C phải chịu trách nhiệm liên đới hoàn trả cho ông D, bà L 5.700.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành theo Điều 357 của Bộ luật Dân sự.
4 Về án phí: Ông N, bà C trên 60 tuổi nên được miễn nộp án phí. Ông D, bà L phải chịu 3.001.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001298 ngày 04/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C Đ, ông D bà L còn phải nộp 2.701.000 đồng tiếp.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người đựơc thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 60/2019/DS-ST ngày 14/11/2019 về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 60/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về