TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 60/2018/HS-PT NGÀY 17/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 31/2018/HS-PT ngày 12 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2018/HS-ST ngày 07/02/2018 của Tòa án nhân dân .
- Bị cáo có kháng cáo:
Đào Anh T, sinh ngày 28/4/2001, tại thị xã H, tỉnh H; nơi cư trú: Tổ dân phố 1, phường N, thị xã H, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hóa 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Thành V, hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam tỉnh Nvà bà Trần Thị L; trú tại: Tổ dân phố 1, phường N, thị xã H, tỉnh H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo không bị tạm giam, tạm giữ, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú số 01 ngày 18/11/2017 của cơ quan CSĐT Công an thị xã Hồng Lĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa. - của bị cáo:: ; sinh năm 1950 - : trú tại tổ dân phố 1, phường N, thị xã H, tỉnh H. (Có )
Ông 2; sinh năm:
- Người bị hại:
1.Anh Nguyễn Trung T3, sinh ngày 19/6/1987. Trú tại: Tổ dân phố H, phường T, thị xã H, tỉnh H (Vắng mặt).
2. Anh Nguyễn Văn B, sinh ngày 18/01/1997. Trú tại: Số nhà 04. ngõ 7, đường Nguyễn Đức Đ, khối 10, phường B, thành phố V, tỉnh N(Vắng mặt).
3.Anh Phạm Quang H, sinh ngày 21/02/1981. Trú tại: Tổ dân phố H, phường T, thị xã H, tỉnh H (Vắng mặt).
4.Chị Võ Thị Q, sinh ngày 06/7/1988. Trú tại: Tổ dân phố 5, phường N, thị xã H, tỉnh H (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ ngày 10/9/2017, Đào Anh T nhắn tin qua mạng xã hội Facebook rủ Trần U và Bùi Kim T1 cùng nhau đi trộm cắp tài sản cả hai đồng ý. Sau đó, Bùi Kim T1dùng xe máy nhãn hiệu SIRIUS, biển kiểm soát X của gia đình chở U đến tổ dân phố 5, phường N, thị xã H để đón T, sau khi cả ba gặp nhau bàn bạc và T1 nhất đến khu vực đền ông H thuộc tổ dân phố H, phường T, thị xã H để trộm cắp tài sản, khi đến nơi khoảng 01 giờ ngày 11/9/2017 T bảo T1 đứng ngoài chờ để T và U vào bên trong đền lấy trộm tài sản, lúc nào xong thì gọi điện đến đón. Khi T và U vào trong thì T1 quay xe về ngồi chờ ở quán Internet tại phường N, thị xã H, tỉnh H. T và U vào trong đền, U dùng một thanh kim loại bẻ cong phần đầu do U chuẩn bị từ trước khều lấy tiền trong hòm công đức và tiền trên bàn thờ đưa cho T cất giữ. Tiếp đó T và U sang phòng ngủ phát hiện hai chiếc điện thoại. Thấy vậy U lẻn vào lấy 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6S màu vàng của anh Nguyễn Văn B và 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6 Plus màu vàng của anh Nguyễn Trung T3 rồi đi ra ngoài. Lúc đi đến khu vực sân trước điện chính T thấy 01 hòm công đức bằng kính bên trong có tiền nên bê đi ra ngoài khoảng 100m rồi đập vỡ hòm lấy hết số tiền bên trong. Sau đó, T gọi điện T1 xuống chở cả ba lên khu vực suối tiên ở phường Bắc H, thị xã H chia số tiền trộm được. Đào Anh T được 325.000đ, Bùi Kim T1 được 300.000đ và Trần U được 350.000đ, còn hai chiếc điện thoại U giữ, trước đó U và T T1 nhất không cho T1 biết. Đến 07 giờ sáng ngày 11/9/2017, T nói với T1 về việc còn trộm được hai chiếc điện thoại nữa, sau đó T1 chở T đến gặp U nhưng không gặp nên đi về. Khoảng hai ngày sau, U đưa chiếc điện thoại Iphone 6S bán cho Trần Long N với giá 1.000.000đ. Còn chiếc điện thoại Iphone 6 Plus, U đưa ra thành phố V, tỉnh N nhờ chị Lê Phan Hà T4 cất giữ. Đến ngày 22/9/2017 Trần U tự nguyện đi lấy lại chiếc điện thoại trên giao nộp cho cơ quan CSĐT Công an thị xã H.
Ngoài hành vi nói trên Đào Anh T và Trần U còn khai nhận khoảng 22 giờ ngày 14/9/2017, T nhắn tin qua Facebook cho Trần U rủ đi trộm cắp tài sản, U đồng ý. U lấy xe mô tô BKS 38F1 - 02056 của gia đình đến quán Internet Anh Thư, thuộc tổ dân phố 2, phường N, sau khi gặp T và U T1 nhất đi dọc tuyến đường trong thị xã H để tìm nhà ai sơ hở thì lấy trộm tài sản. Đến khoảng 02 giờ ngày 14/9/2017 khi đi qua nhà chị Q ở tổ dân phố 5, phường N, T một mình đột nhập vào trong lấy trộm tài sản, U ở ngoài cảnh giới. Khi vào trong T lấy được một túi xách, 01 máy tính xách tay nhãn hiệu ASUS và số tiền 110.000đ, sau khi trộm xong cả hai gặp nhau và cùng đi đến nhà nghỉ 79 ở phường Bắc H, thị xã H để nghỉ và kiểm tra số tài sản đã trộm được, khi kiểm tra T thấy có 2.500.000đ, 01 thẻ ATM ngân hàng Viettin Bank và một số giấy tờ tùy thân, T nói U chia cho T 1.400.000đ, sau đó cả hai T1 nhất chở nhau tìm cây ATM để kiểm tra và rút tiền, khi ra cây ATM của ngân hàng MB thuộc tổ dân phố 8, phường Bắc H, nhập mật khẩu theo ngày tháng có trong chứng minh nhân dân của chị Q rút được 640.000đ, T và U T1 nhất chia đôi.
Ngày 03/10/2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thị xã Hồng Lĩnh kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng có trị giá 8.500.000đ, chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng có trị giá 6.000.000đ và 01 máy tính xách tay nhãn hiệu ASUS X451M kèm bộ sạc có giá trị 3.000.000đ.
Với hành vi phạm tội nêu trên, tại bản án Hình sự sơ thẩm số: 03/2018/HS-ST ngày 07/02/2018 của Tòa án nhân dân thị Quyết định:
Tuyên bố bị cáo: Đào Anh T phạm tội: “ Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng : Khoản 1 Điều 138; ý thứ nhất điểm p, ý thứ hai và ba điểm b, điểm o khoản 1, khoản 2 Điều 46, ý thứ nhất điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 68, Điều 69, Điều 71, Điều 74, Điều 33 và Điều 53 của Bộ luật hình sự năm 1999.
Xử phạt bị cáo Đào Anh T 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
Truy thu số tiền 975.000 đồng từ bị cáo Đào Anh T, đây là số tiền do hành vi phạm tội mà có. tuyên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự; tuyên quyền kháng cáo bị cáo, , người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.
Trong hạn luật định, ngày 07/2/2018 bị cáo Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai và thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung của bản án sơ thẩm. Bị cáo trình bày ý kiến và vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Bị cáo Đào Anh T tuổi đời còn rất trẻ, nhất thời thực hiện hành vi phạm tội, trong quá trình điều tra bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả và tự thú. Ngoài ra, bị cáo được người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Hoàn cảnh bị cáo hết sức khó khăn, bố đi tù, mẹ bỏ đi khi bị cáo còn nhỏ, bị cáo ở với bà ngoại nay đã già yếu bệnh tật, không nơi nương tựa, nay bà đã già yếu, bị cáo là chỗ dựa tinh thần cho bà. Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố xét xử phúc thẩm vụ án đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo .
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp , với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy hành vi phạm tội của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành của tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS. Do đó, bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân phạm tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội, có căn cứ, đúng pháp luật.
[2]. Kháng cáo của bị cáo của bị cáo Đào Anh T có nội dung: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo với lý do tuổi còn nhỏ, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Xét trong vụ án này bị cáo T tham gi , trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản hai lần.Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo và nhất thời phạm tội. Trong quá trình điều tra, bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả và tự thú, người bị hại là chị Võ Thị Q có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, án sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo Đào Anh T 09 tháng tù là có căn cứ. Xét thấy, bị cáo lµ ng•êi có tuổi đời đang còn quá trẻ, tại thời điểm xét xử phúc thẩm bị cáo chưa tròn 17 tuổi, bị cáo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, mẹ bỏ đi từ khi bị cáo còn nhỏ, bị cáo ở với bà ngoại, bố đi tù, thiếu thốn sự chăm sóc dạy bảo của bố mẹ. Bị cáo có nơi cư trú cụ thể rõ ràng, có nhân thân tốt. Vì vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giữ nguyên mức hình phạt như án sơ thẩm tuyên, áp dụng Điều 60 BLHS để cải biện pháp thi hành án, cho bị cáo được hưởng án treo để tạo điều kiện cho bị cáo được cải tạo giáo dục tại địa phương cũng đủ nghiêm, thể hiện tính nhân đạo và sự khoan hồng của Nhà nước nhất là đối với người chưa thành niên.
Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật Tòa phúc thẩm không xem xét.
[3]. Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu Án phí, lệ phí Tòa án bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;
1. Chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của bị cáo , sửa bản án sơ thẩm số -Tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; ý thứ nhất điểm p, ý thứ hai và ba điểm b, điểm o khoản 1, khoản 2 Điều 46, ý thứ nhất điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 68, Điều 69, Điều 71, Điều 74, Điều 33 và Điều 53 của Bộ luật hình sự năm 1999.
Xử phạt bị cáo Đào Anh T 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Đào Anh T cho UBND phường N, thị xã H, tỉnh H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp những người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự .
2, Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu Án phí, lệ phí Tòa án bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3, Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 60/2018/HS-PT ngày 17/05/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 60/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/05/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về