TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 601/2023/HS-PT NGÀY 14/12/2023 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 14 tháng 12 năm 2023, tại Điểm cầu trung tâm Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối với Điểm cầu thành phần tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 521/2023/HS-PT ngày 23 tháng 10năm 2023 đối với bị cáo Trần Văn C về tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2023/HS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
- Bị cáo có kháng cáo:
Trần Văn C. Sinh ngày 25/3/1982, tại C, Hải Dương. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn C, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: làm nông; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn K (đã chết) và bà Chu Thị B, sinh năm 1957; vợ là Bùi Thị Thu H, sinh năm 1990, có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2018.
Tiền án: Ngày 25/12/2018, bị TAND huyện Chư Păh xử phạt 24 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Chấp hành xong hình phạt ngày 03/7/2020. Tiền sự: Ngày 08/12/2021, bị Công an huyện Đ xử phạt hành chính 3.500.000 đồng về hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác” (Đã nộp phạt, chưa được xóa).
Nhân thân:
- Năm 2006 bị TAND huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. (Xóa án tích).
- Năm 2007, bị TAND thành phố Pleiku xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tổng hợp hình phạt với bản án của TAND huyện Đak Đoa, buộc bị can chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 21 tháng tù. (Xóa án tích).
- Năm 2014, bị TAND thành phố Pleiku xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Giữ người trái pháp luật”. (Xóa án tích) Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/6/2023 đến nay.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều ngày 27 tháng 12 năm 2021, Trần Văn C ở tại nhà lán trong trạm thu mua mì của C thuộc làng P, Đak Sơ M, Đ, Gia Lai và uống rượu cùng với Đinh L1, N cùng một số người khác. Khi đang uống rượu thì có anh T ở huyện C, Gia Lai dùng số điện thoại 0969111X gọi đến số điện thoại của C 096577X và nói: “Nay anh thu mua mì ở Đak Sơ M phải không, em có thằng kia chuyên chở mì bán cho em trước đây, để em nói nó qua bán ủng hộ anh”, C nói: “Thì em cứ nói nó chạy xuống trạm của anh, giá cả được thì nó bán cho anh”, T trả lời: “Em gọi cho nó rồi, chút nó chở mì nó ghé anh”. Đến khoảng 17h cùng ngày, Trần Văn C thấy có xe chở mì của anh Lữ Thanh H1 chạy ngang qua điểm thu mua mì của C nhưng không vào bán mà đi thẳng đến trạm thu mua mì của Lê Văn C1 nên C nói N chở C đi theo xe chở mì của H1 để C gặp nói chuyện với H1, N chở C đi theo xe H1 đến trạm thu mua mì của Lê Văn C1 (thuê lại của ông Vũ Văn T1) thuộc làng P, Đak Sơ M, Đak Đ1, Gia Lai; H1 đang điều khiển xe đổ mì xuống sân trạm thu mua mì của C1 thì C đến nói với H1: “Anh là C đây, chỗ T mới giới thiệu qua, em đổ mì ở đây xong thì xuống trạm anh uống nước, bữa nào có mì chở bán cho anh”, C nói xong thì đi ra ngoài, C1 nhìn thấy C nói chuyện với H1 thì nghĩ C đến gây sự, không cho H1 bán mì cho C1 nên C1 cầm dao Thái Lan chạy bộ từ nhà lán ra dùng dao đánh và đâm C. Được những người có mặt tại nhà lán can ngăn nên C1 không đánh C nữa, C bỏ đi ra ngoài đường trước trạm thu mua mì đứng chửi và thách thức đánh nhau với C1. Nhin thấy C đi bộ ra ngoài nhưng không lên xe của N để đi về thì do phải tiếp tục đi làm nên N điều khiển xe quay về trạm thu mua mì của C ở làng P kể lại sự việc cho Đinh L1 nghe việc C bị đánh ở lán trại của C1. Sau khi nghe sự việc, Đinh L1 điều khiển xe đến trạm thu mua mì thứ 2 của C tại xã H, C, Gia Lai kể lại việc C cãi nhau ở kho mì của Lê Văn C1 cho Bùi Xuân N1 (em vợ C), Nguyễn Đức A và H2 nghe việc C say rượu, đang cãi nhau ở lán thu mua mì của C1. Nghe vậy thì Bùi Xuân N1 mang theo một con dao Thái Lan có vỏ bọc bằng nhựa rồi điều khiển xe mô tô chở A và mang theo chiếc bao bên trong có hai con dao phát dài khoảng 01m đi về phía trạm thu mua mì của C1. Khi N1 và A đến và dừng xe trước trạm thu mua mì của Lê Văn C1 thì C đến chỗ xe N1 và A, sau đó C cầm theo một con dao dài khoảng 25-30cm đi vào phía trong sân trạm của Lê Văn C1, N1 cầm theo con dao dài khoảng 30cm, A cầm theo hai con dao phát dài khoảng 01m đi phía sau C. Thấy C cầm dao đi vào sân, anh Vũ Văn T1 đang đứng ở đuôi xe tải của mình nói: “Chú C ơi từ từ đã”, C không nói gì mà đi thẳng đến vị trí anh T1 đang đứng rồi dùng dao đâm một nhát trúng vào bắp tay phải của anh T1 gây thương tích thì anh Tam l sang bên hông xe ô tô tải. Lúc này, khi thấy C cùng N1 và A cầm hung khí đi vào và đâm ông T1 nên C1 cầm một cây cuốc chim, Mai Văn L2 cầm một cây búa tạ ra chuẩn bị đánh nhau với nhóm của C.
Thấy C1 cầm cuốc chim, L2 cầm búa tạ, C quay sang thấy A cầm theo hai con dao nên giằng lấy cây rựa mà A đang cầm để đánh nhau nhưng A không cho và giằng lại rựa. C tiếp tục cầm dao tiến đến vị trí của C1 và L2 còn N1 và A đi theo sau C để hỗ trợ và cùng tiến đến vị trí của C1 và L2. Khi nhóm C đi đến thì C1 và L2 lùi ra phía sau sân đổ mì. Khi lùi đến phía sau nhà, C1 dùng cuốc chim bổ về phía C nhưng không trúng và bị C và Nam đuổi chạy xung quanh nhà. Còn L2 bị N1 và A đe dọa không cho đi cùng với C1 nên lùi về phía bên bãi mì vừa đổ. Khi thấy N1 và C đã đuổi theo C1 thì Vũ Hữu H3 cầm một đoạn ống nhôm dài khoảng 01m ra hỗ trợ thì L2 và H3 đuổi đánh A. Thấy H3 tiếp tục cầm thêm một cây xạc la nên A bỏ chạy đi lên trước nhà đứng. H3, L2 không đuổi theo A nữa mà cầm theo xạc la đuổi theo N1 và C để giải vây cho C1. Khi đến phía sau sân đổ mì, nhìn thấy N1 và C tiếp tục đuổi đánh C1 thì L2 cầm búa tạ đến phía trước C quơ một phát trúng vào vai C làm rớt búa tạ nên L2 bỏ chạy.
Còn H3 chạy phía sau N1 và C dùng xạc la bổ một nhát theo hướng từ trên xuống về phía Nam nhưng không trúng. N1 quay lại thì H3 bổ nhát thứ hai từ trên xuống trúng hông trái gây thương tích, Nam áp sát vào người H3 thì H3 bổ nhát thứ ba từ trên xuống, Nam giơ tay trái lên đỡ thì bị chém vào khuỷu tay, H3 mất cân bằng và ngã ngửa ra sân, N1 xông tới dùng dao Thái Lan đâm nhiều nhát vào vai, lưng, đùi của H3 rồi bỏ chạy. A ở phía trước nhà nhìn thấy và chạy đến dùng mã tấu chém nhiều nhát vào đầu, lưng, chân của H3. Thấy H3 bị An chém, N1 cũng quay lại dùng dao đâm thêm 2-3 nhát nữa. H3 nằm dưới đất dùng tay gạt đỡ và chụp giữ mã tấu của A thì bị N1 và A dùng chân đạp H3 ra để lấy lại mã tấu rồi A và N1 mỗi người cầm một mã tấu chém liên tiếp vào lưng, chân của H3. Quá trình N1 và A đánh chém H3 thì C vẫn đuổi theo để đánh C1 nhưng do C đuổi không kịp C1 nên C đi bộ quay lại, khi thấy A và N1 đang đứng cạnh H3 đang nằm dưới đất, C xông lại chỗ H3 thì được N1 ôm cản ra ngoài. Sau khi N1 cản C ra trước nhà thì A tiếp tục đá vào người H3 và dùng dao chém vào người H3 một cái sau đó mới bỏ đi ra phía trước. Sau đó, A và N1 lấy xe bỏ đi khỏi hiện trường, còn C ở lại ngồi nói chuyện với ông T1, lúc này có bà Vũ Thị C2 (là em gái ông T1) la lối và lấy điện thoại ra quay phim nên C bực tức lấy ghế nhựa đánh bà C2 và dùng tay túm tóc bà C2, ông T1 cầm một viên gạch lên và nói với C: “Mày thả em tao ra”; C nhặt một cây bút bi để đâm ông T1, lúc này thì có anh Huỳnh Minh C3- Trưởng Công an xã Đ nhận được tin báo đã đến hiện trường thì C bỏ đi khỏi hiện trường; sau đó Vũ Hữu H3 và Vũ Văn T1 được đưa đi điều trị tại Bệnh viện Q. Tại Kết luận giám định số 563/KL-KTHS ngày 07/6/2022 của Phân viên khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, kết luận: Không phát hiện thấy dấu hiệu cắt, ghép nội dung hình ảnh của 02 (hai) file video gửi giám định.
Tại Kết luận giám định số 1570KL-KTHS ngày 01/8/2023 của Phân viện KHHS tại thành phố Đà Nẵng, kết luận: Theo thời gian hiển thị trên hình ảnh trong file video gửi giám định: Trích xuất được 276 file hình ảnh trong khoảng thời gian từ 17:10:46 đến 17:10:56.
Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2023/HS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:
1. Về tội danh: tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”
2. Về hình phạt: áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần Văn C 4 (Bốn) năm 6 (S) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/6/2023.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 22/9/2023, bị cáo Trần Văn C có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Trần Văn C giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tòa án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Trần Văn C là đúng pháp luật; bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ, nhưng không có tình tiết mới, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 355 BLTTHS bác kháng cáo của bị cáo C giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo Trần Văn C trình bày: Bị cáo sau khi phạm tội đã ra đầu thú và tích cực giúp Cơ quan điều tra giải quyết vụ án, vận động các bị cáo Bùi Xuân N1 và Nguyễn Đức A ra đầu thú, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Chiều ngày 27/12/2021, xuất phát từ việc Lê Văn C1 dùng dao đâm vào người Trần Văn C nên Trần Văn C cầm dao đến lán trại thu mua mì của Lê Văn C1 để đánh trả thù, quá trình diễn biến sự việc C chỉ cầm dao đuổi đánh C1 mà không nhằm vào ai khác xảy ra trong khu vực lán thu mì của C1 nơi khu vực diễn ra hoạt động mua bán mì xung quanh có nhiều nhà dân sinh sống gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương và dẫn đến hậu quả một vụ án “”giết người” xảy ra. Tòa án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Văn C tội “Gây rối trật tự công cộng” với tình tiết định khung “Dùng hung khí” theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của bị cáo Trần Văn C thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc khoản 2 Điều 318 BLHS năm 2015 có khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến an toàn công cộng và các quy tắc, sinh hoạt, làm việc tại nơi công cộng được luật hình sự bảo vệ, làm mất trật tự trị an xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, bị cáo có tiền án, tiền sự, tình tiết tăng nặng “Tái phạm” tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo đầu thú, thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, tích cực giúp cơ quan điều tra được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xét thấy mức án Tòa án sơ thẩm tuyên phạt 4 năm 6 sáu tháng tù đối với bị cáo có phần nghiêm khắc. Do đó hội đồng xét xử xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt, sửa Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí: Bị cáo Trần Văn C kháng cáo được chấp nhận; do đó không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn C sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2023/HS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về hình phạt tù như sau:
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Trần Văn C 03 (ba) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/6/2023.
2. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2023/HS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí: Bị cáo Trần Văn C không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về