Bản án 600/2020/HS-ST ngày 22/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 600/2020/HS-ST NGÀY 22/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 608/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 654/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Như Y, sinh năm 1980 tại tỉnh Thái Nguyên; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT: Tổ 01, phường Q, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 10/12; Dân tộc: Kinh;

Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn T, sinh năm 1942; Con bà: Vũ Thị N đã chết; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Tại quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 214/2018/QĐ-TA ngày 27/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên bắt buộc cai nghiện thời hạn 16 tháng, đã chấp hành xong ngày 30/12/2019.

Nhân thân: Tại quyết định số 26/QĐ-XPHC ngày 05/7/2009 của Công an phường Quang Vinh, thành phố Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính 150.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản (Đã nộp phạt xong ngày 06/7/2009).

Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 228/QĐ-XPHC ngày 12/7/2013 của Công an thành phố Thái Nguyên xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Tại Bản án số 241/1998/HSST ngày 13/10/1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 36 tháng tù về tội Cướp tài sản của công dân, đã chấp hành xong án phí ngày 31/3/1999.

Tại bản án số 338/2013/HSST ngày 22/8/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong bản án ngày 06/10/2015.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/9/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Hoài Nam, sinh năm 1976; Địa chỉ: Xóm Mỏ, xã Phúc Hà, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ 45 phút ngày 16/9/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên và Công an xã Phúc Hà, thành phố Thái Nguyên phối hợp tuần tra trên địa bàn, khi đến khu vực tổ 01, phường Quan Triều, thành phố Thái Nguyên thì phát hiện 01 nam giới có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Nam thanh niên khai tên Phạm Như Y, đồng thời tự giác giao nộp 01 gói giấy màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng. Ý khai đó là ma túy loại heroine, Ý vừa mua được của một người nam giới tên Minh với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong, thu giữ vật chứng đối với Phạm Như Y.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng trong gói giấy bạc màu trắng thu giữ của Phạm Như Y có khối lượng 0,17 gam. Tại Kết luận giám định số 1209/KL- KTHS ngày 24/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong bì ký hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,17 gam.

Vật chứng của vụ án là: 01 bì niêm phong ký hiệu A2 bên trong chứa heroine là mẫu hoàn lại sau giám định.

Tại bản cáo trạng số 611/CT-VKSTPTN ngày 20/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Phạm Như Y về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo toàn bộ diễn biến, hành vi, mục đích phạm tội như sau: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 16/9/2020, khi bị cáo đang ở nhà tại tổ 1, phường Quan Triều, thành phố Thái Nguyên do có nhu cầu mua ma túy để sử dụng nên bị cáo gọi điện cho một người đàn ông tên Minh để hỏi mua 200.000 đồng ma túy heroine và bảo Minh mang đến nhà cho Ý. Sau đó Ý ra đầu ngõ đợi khoảng 15 phút thì người tên Minh đến, Minh đưa cho Ý một gói ma túy được gói bằng giấy mày vàng, Ý trả cho Minh 200.000 đồng. Sau đó Ý cầm gói ma túy ở lòng bàn tay trái định đi tìm nơi sử dụng thì bị Công an xã Phúc Hà kiểm tra nên bị cáo đã tự giác giao nộp gói ma túy. Bản cáo trạng truy tố bị cáo về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người đúng tội, không oan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự tuyên bố Phạm Như Y phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; tịch thu tiêu hủy vật chứng và buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt thấp nhất.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan toàn bộ các chứng cứ, ý kiến đề nghị của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các thủ tục, trình tự tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[2] Trên cơ sở đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật bị tạm giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến, vật chứng của vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xác định:

Hồi 08 giờ 45 phút ngày 16/9/2020 tại khu vực tổ 01, phường Quan Triều, thành phố Thái Nguyên, Phạm Như Y có hành vi tàng trữ 0,17 gam ma túy loại Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng. Xét động cơ, mục đích phạm tội, khối lượng chất ma túy tàng trữ, thì hành vi của bị cáo Phạm Như Y đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều 249 của Bộ luật hinh sự quy định. “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt từ 01 năm đến 05 năm:

a....., b......

c, Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố Phạm Như Y về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước. Tuy khối lượng chất ma túy bị cáo tàng trữ trái phép không lớn nhưng hành vi của bị cáo đã góp phần gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Bị cáo tự mình thực hiện hành vi phạm tội, không có đồng phạm khác.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 BLHS.

[5] Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử, bị xử phạt vi phạm hành chính. Bị cáo vừa chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ngày 30/12/2019 nhưng vẫn tiếp tục sử dụng ma túy và có hành vi phạm tội với lỗi cố ý.

Những yếu tố trên Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[6] Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức hình phạt phù hợp để giáo dục bị cáo nói riêng, góp phần ngăn ngừa tội phạm về ma túy nói chung. Xem xét mức hình phạt từ 24 đến 30 tháng tù đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đề xuất đối với bị cáo là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Hành vi phạm tội của bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nhiều năm, không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, tại địa phương không có tài sản gì. Do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của BLHS; Điều 106 của BLTTHS cần tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký kiệu A2 bên trong chứa heroine là mẫu hoàn lại sau giám định.

[8] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này Phạm Như Y khai mua của 01 người đàn ông không quen biết tên Minh, ở khu vực tổ 01, phường Quan Triều, thành phố Thái Nguyên. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự; Điều 326 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Như Y phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2.Xử phạt: Phạm Như Y 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 16/9/2020.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tiếp tục tạm giam Bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS; Điều 106 của BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu A2. Mặt sau phong bì có chữ ký của ông Trương Đăng Tam – Cán bộ Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên và ông Ma Triệu Vũ – Cán bộ Công an thành phố Thái Nguyên cùng 02 dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.

(Đặc điểm các vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 131 ngày 17/11/2020 giữa Chi cục Thi hành dân sự thành phố Thái Nguyên và Công an TP Thái Nguyên).

3.Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/QH ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Như Y phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Án xét xử sơ thẩm công khai. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 600/2020/HS-ST ngày 22/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:600/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;