Bản án 600/2020/HS-ST ngày 09/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 600/2020/HS-ST NGÀY 09/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 555/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 576/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 842/2020/HSST-QĐ ngày 26 tháng 10 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: đối với: /2020/HSST-QĐ ngày 04 tháng 11 năm 2020 Bị cáo Nguyễn Sơn T, sinh năm: 1991 tại Nghệ An; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 8, xã QS, huyện ĐL, tỉnh Nghệ An; nơi tạm trú: Khu phố A, phường LB, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hàm Ph và bà Nguyễn Thị C; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không:

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19 tháng 7 năm 2020 đến nay tại Nhà tạm giữ – Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Cháu Lê Tuấn A, sinh ngày 10/8/2005; cư trú tại: Khu phố A, phường LB, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1/ Chị Phạm Thị M, sinh năm: 1979:

2/ Anh Lê Hữu Th, sinh năm: 1971:

Cùng cư trú tại: Khu phố A, phường LB, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị M, sinh năm:

1979; cư trú tại: Khu phố A, phường LB, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai.

Người làm chứng:

1/ Ông Vũ Ngọc Th1, sinh năm: 1952; cư trú: Số 33/3, Tổ 4, Khu phố 2, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

2/ Anh Nguyễn Viết T, sinh năm: 1976; cư trú tại: Tổ 18A, phường LB, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Để có tiền tiêu xài, Nguyễn Sơn T nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản. Thực hiện ý định trên. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 19/7/2020, T cầm theo 01 (một) biển số xe 52F5-3546 rồi đi bộ từ phòng trọ tại tổ 2, khu phố 2A, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa đến khu vực chợ Điều thuộc khu phố 2, phường Long Bình nhằm mục đích xem ai sơ hở trong việc quản lý xe mô tô thì lấy trộm. Khi đi ngang qua tiệm chụp hình TH địa chỉ tổ 8, khu phố 2, phường Long Bình thì phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ, nâu biển số 60F3- 428.26 của cháu Lê Tuấn A đang dựng phía trước không có người trông coi, nên T đã lén lút đi đến dắt xe mô tô trên tẩu thoát. Sau đó, T dắt xe đến gửi tại bãi giữ xe địa chỉ số 33/3, tổ 4, khu phố 2, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa do ông Vũ Ngọc Th1 quản lý. Tại đây, T thay quần áo và thay biển số 60F3- 428.26 thành biển số 52F5-3546. Sau khi thay biển số xe xong thì T điện thoại cho anh Nguyễn Viết T (là người chạy xe ba gác thuê) để thuê anh T chở T cùng với xe mô tô trên đi tiêu thụ, khi cả hai đi đến trước nhà sách Duy Đức Th thuộc tổ 7, Khu phố 2, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa thì T bị Công an phường Long Bình giữ lại và mời về trụ sở Công an phường để làm việc. Tại Công an phường, Nguyễn Sơn T khai nhận hành vi phạm tội của mình. Công an phường đã lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa để xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Vison, có số máy JE86E0275592, số khung 5825KY025499, 01 (một) biển số xe mô tô 60F3-428.26 và 02 (hai) gương chiếu hậu đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu là chị Phạm Thị M.

- 01 (một) biển số 52F5 – 3546 là của T sử dụng vào việc phạm tội. Qua xác minh tại Đội Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đồng Nai thì không tìm thấy dữ liệu.

- 01 (một) áo phông đen xanh đỏ và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel bên trong có gắn sim điện thoại số 0359884829 là của T sử dụng vào việc phạm tội.

- 01 USB hiệu Kingston 4GB lưu dữ liệu có liên quan đến vụ án được trích xuất từ hệ thống camera tại khu vực tiệm chụp ảnh Thanh Hà, lưu kèm theo vụ án.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số 319/TCKH-HĐĐG ngày 21/7/2020, của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa kết luận: “01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision biển số 60F3-428.26 có giá trị định giá là: 28.620.000 đồng (Hai mươi tám triệu sáu trăm hai mươi nghìn đồng)”.

Về dân sự: Bị hại cháu Lê Tuấn A, người đại diện hợp pháp của cháu Tuấn Avà người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, là chị Phạm Thị M và anh Lê Hữu Th đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu T bồi thường.

Đối với anh Nguyễn Viết T đã có hành vi chở T cùng với tài sản T mang theo. Tuy nhiên, anh T không biết tài sản trên do T phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không xử lý hình sự.

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 561/CT-VKSBH ngày 30/9/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố:

- Nguyễn Sơn T, về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

+ Áp dụng Khoản 1, Điều 173 và Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 và điểm i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Nguyễn Sơn T 12 tháng đến 14 tháng tù.

+ Xử lý vật chứng theo quy định.

- Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, nhận thức được hành vi sai trái của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Bị hại là cháu Lê Tuấn A, người đại diện hợp pháp của cháu A và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Phạm Thị M và anh Lê Văn Th và những người làm chứng là ông Vũ Ngọc Th1 và anh Nguyễn Viết T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên, lời khai của họ đã đầy đủ và có trong hồ sơ vụ án. Việc vắng mặt trên không ảnh hưởng đến việc xét xử; nên Tòa án xét xử vắng mặt họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi bị truy tố và tội danh:

Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản lấy lời khai bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 19/7/2020, tại trước tiệm chụp hình TH địa chỉ tổ 8, KP 2, p. Long Bình, TP Biên Hòa, Đồng Nai, Nguyễn Sơn T đã có hành vi trộm cắp 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision biển số 60F3-428.26 trị giá là 28.620.000 đồng (Hai mươi tám triệu sáu trăm hai mươi nghìn đồng) của cháu Lê Tuấn A thì T bị bắt giữ để điều tra xử lý.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Nguyễn Sơn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản Cáo trạng số 561/CT-VKSBH ngày 30/9/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “ Trộm cắp tài sản” theo điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, là khách thể được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang trong đời sống của người dân tại các khu dân cư. Bị cáo là người có sức khỏe, tuổi đời còn trẻ, có khả năng lao động nhưng lại lười lao động, để có tiền tiêu xài mà không phải bỏ sức, bị cáo bất chấp quy định của pháp luật lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T phạm tội đối với người dưới 16 tuổi nên thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với anh Nguyễn Viết T đã có hành vi chở T cùng với tài sản T mang theo. Tuy nhiên, anh T không biết tài sản trên do T phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không xử lý hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về vật chứng - 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Vison, có số máy JE86E0275592, số khung 5825KY025499, 01 (một) biển số xe mô tô 60F3-428.26 và 02 (hai) gương chiếu hậu đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu là chị Phạm Thị M là phù hợp với quy định của pháp luật:

- 01 (một) biển số 52F5 – 3546; 01 (một) áo phông đen xanh đỏ là của T sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel bên trong có gắn sim điện thoại số 0359884829 là của T sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- 01 USB hiệu Kingston 4GB lưu dữ liệu có liên quan đến vụ án được trích xuất từ hệ thống camera tại khu vực tiệm chụp ảnh Thanh Hà, lưu kèm theo vụ án.

[5] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự:

Bị hại là cháu Lê Tuấn A, người đại diện hợp pháp của cháu Tuấn A và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Phạm Thị M và anh Lê Văn Th đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Nguyễn Sơn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định:

[8] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu và xin giảm nhẹ hình phạt.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Sơn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ Khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Nguyễn Sơn T 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19 tháng 7 năm 2020.

2. Về Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) biển số 52F5 – 3546; 01 (một) áo phông đen xanh đỏ. Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27 tháng 10 năm 2020:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel bên trong có gắn sim điện thoại số 0359884829 Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27 tháng 10 năm 2020:

- Lưu kèm hồ sơ vụ án 01 USB hiệu Kingston 4GB lưu dữ liệu có liên quan đến vụ án được trích xuất từ hệ thống camera tại khu vực tiệm chụp ảnh Thanh Hà.

2. Về án phí:

Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Nguyễn Sơn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 600/2020/HS-ST ngày 09/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:600/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;