TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 598/2023/HS-PT NGÀY 14/12/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 14 tháng 12 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối với điểm cầu thành phần trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 503/2023/HS-PT ngày 19 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Quang P về tội “Giết người”.Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2023/HS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Quang P, sinh ngày 26/3/1989 tại Hà Tĩnh. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn I, xã N, huyện C, tỉnh Gia Lai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: kinh. Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: công nhân. Học vấn: 12/12. Cha là Nguyễn T (đã chết); mẹ là Phạm Thị T1, sinh năm 1963. Gia đình có 5 anh chị em, bị cáo là con thứ ba, chưa có vợ. Tiền án, tiền sự: không Bị bắt ngày 16/6/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh G, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quang P: Luật sư Trần Đại H - Văn phòng Luật sư Trần Thị P1, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh G, có mặt.
Địa chỉ: số A Đ, phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 22 giờ ngày 01/12/2022, sau khi cùng nhau ăn nhậu tại thôn B, xã H, huyện C, tỉnh Gia Lai xong thì Nguyễn Quang P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 81B2-599.06 chở Huỳnh Minh V về nhà V. Khi cả hai đi ngang qua nhà anh Võ Văn T2 và chị Trần Thị Thanh Q (sinh năm 1994), thuộc thôn C, xã H thì V nhớ lại việc anh T2 là người thứ ba xen vào mối quan hệ yêu đương giữa V và chị Q dẫn đến việc chị Q bỏ V đi theo T2 rồi lấy anh T2 nên V bực tức và nảy sinh ý định đánh anh T2 để trả thù. V rủ P: “Đi đánh thằng này với tao”, thì P hỏi: “Đánh ai? Coi chừng nó đánh chết, thôi đi”. V không trả lời câu hỏi của P mà nói tiếp: “Cứ đi rồi biết”, P nghe xong thì không nói gì mà ngầm đồng ý đi cùng rồi tiếp tục chở V về nhà V để lấy hung khí. Khi đến nhà, V nói P đợi rồi đi vào trong nhà lấy con dao dài 35cm (loại dao chặt xương, lưỡi bằng kim loại dài 23cm, bản lưỡi chỗ rộng nhất 9,5cm; cán dao gỗ hình trụ tròn dài 12cm, đường kính cán 3,5cm) giấu vào trong người rồi đi ra nói P chở quay lại nhà anh T2. Khi đi đến trước nhà anh T2 thì V nói P dừng xe rồi ở ngoài đường chờ, còn V xuống xe chạy vào nhà anh T2, khi đến sân thấy cửa nhà còn đang mở thì đi vào gọi: “T2 ơi, T2 ơi”, anh T2 nghe có người gọi thì từ phòng ngủ bước ra (khoảng cách giữa V và anh T2 là 4,8 mét). Thấy anh T2 ra, V không nói gì mà cầm dao bằng tay phải chạy thẳng về phía anh T2 để chém, bất ngờ nên anh T2 liền bước lùi về phía sau bếp theo đường luồn, khi lùi được vài mét thì V chạy đến gần, khi đến cách anh T2 khoảng 70cm thì V cầm dao giơ lên qua đầu chém mạnh 01 nhát theo chiều hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái, hướng vào vùng đầu của anh T2, theo phản xạ anh T2 giơ ngửa bàn tay phải lên cao qua đầu để đỡ thì bị dao chém trúng vào kẽ tay giữa ngón 1 và 2 gây thương tích, gây vết thương phức tạp liên kẽ ngón I, II, đứt gân dạng dài ngón I, đứt nhánh mạch hố lào, đứt gân gấp các ngón, đứt gân gấp ngón I làm 02 đoạn, đứt thần kinh giữa, mẻ nền xương bàn II, gãy xương thang, xương thê bàn tay phải. Bị chém anh T2 bỏ chạy ra sau bếp thì V tiếp tục đuổi theo, lúc này chị Trần Thị Thanh Q chạy ra rồi lao vào ôm chân của V van xin, giữ lại thì V mới dừng lại, Nguyễn Quang P thấy có tiếng kêu la nên chạy vào, thấy V vừa chém anh T2 xong thì kéo V ra rồi chở đi về. Anh T3 được gia đình đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Q1, đến ngày 13/12/2022 thì xuất viện Ngày 01 tháng 02 năm 2023, Cơ quan điều tra đã tiến hành thực nghiệm điều tra để kiểm tra, đánh giá lại nội dung, diễn biến vụ án, vị trí, khoảng cách khi bị can V thực hiện hành vi chém anh T3. Kết quả thực nghiệm điều tra xác định: Khi V vào đến cửa nhà gọi thì anh T3 từ phòng ngủ bước ra, lúc này anh T3 cách V khoảng 4,8m. Thấy anh T3 thì V cầm dao lao đến chém, anh T3 bước lùi ra sau bếp theo đường luồng được vài bước thì V chạy đến gần, khi cách anh T3 khoảng 0,7m thì tay phải V cầm dao vung lên cao chém mạnh vào vùng đầu, mặt của anh T3, anh T3 giơ ngửa bàn tay phải lên cao qua đầu, mặt để đỡ (che phần đầu, mặt) thì bị dao chém trúng kẽ ngón 1 và 2. Anh T3 ôm tay bỏ chạy ra sau bếp thì V tiếp tục đuổi theo, khi V đi hết đường luồn xuống đến phòng bếp thì vợ anh T3 là chị Q từ phòng ngủ chạy ra chặn, xô đẩy và quỳ xuống ôm chân V giữ lại thì V mới dừng lại, sau đó Nguyễn Quang P vào kéo V ra khỏi nhà.
Kết quả thực nghiệm điều tra về diễn biến hành vi phạm tội của V là phù hợp với kết quả điều tra vụ án * Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 15/23/TgT ngày 30/01/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh G đối với Võ Văn T2: 1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- 01 sẹo vết thương phần mềm mặt mu đầu gần xương bàn 1 qua kẽ ngón I-II đến mặt lòng ô mô ngón V bàn tay phải: 2%.
- 01 sẹo mổ mặt lòng bàn tay phải từ đầu gần xương bàn 3 đến nếp gấp cổ tay phải: 02%.
- Chấn thương gây mẻ nền xương bàn II bàn tay phải, không ảnh hưởng chức năng bàn tay, ngón tay: 2%.
- Chấn thương gây gãy xương cổ tay phải, ảnh hưởng ít động tác cổ tay:
6%.
- Vết thương gây đứt gân dạng dài ngón I, đứt gân gấp các ngón, đứt gân gấp ngón 1 làm hai đoạn sau điều trị gây hậu quả cứng khớp liên đốt tại vị trí vết thương bàn tay phải: 7%.
- Vết thương gây tổn thương nhánh thần kinh giữa tại vị trí vết thương bàn tay phải: 11%.
- Vết thương gây tổn thương nhánh thần kinh quay tại vị trí vết thương bàn tay phải: 11%.
- Vết thương gây đứt nhánh động mạch ở bàn tay phải đã điều trị, không thiếu máu nuôi dưỡng bên dưới: 4% Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là: 37% * Kết luận khác:
- Cơ chế hình thành vết thương: Do sự tác động trực tiếp.
- Vật gây thương tích: Phù hợp với sự tác động của vật sắc có cạnh bén. Vì vậy, con dao do Cơ quan CSĐT Công an huyện C cung cấp là vật phù hợp có thể gây ra thương tích nêu trên.
* Tại Kết luận giám định số 655/KL-KTHS ngày 26/7/2023 của Phòng K - Công an tỉnh G Kết luận: Trên con dao gửi giám định có máu người, do lượng mẫu ít nên không xác định được nhóm máu hệ ABO.
*Vật chứng của vụ án:
- Ngày 02/12/2022, Huỳnh Minh V tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra hung khí gây án là 01 con dao (loại dao chặt xương) dài 35cm; lưỡi dao bằng kim loại dài 23cm, bản lưỡi chỗ rộng nhất 9,5cm, trên lưỡi dao có 01 lỗ hình tròn đường kính 01cm; cán dao hình trụ tròn dài 12cm, đường kính 3,5cm.
- Đối với xe mô tô Biển kiểm soát 81B2-599.06 mà Nguyễn Quang P đã sử dụng chở V đi gây thương tích cho anh T2 là xe Phúc mượn của em trai là Nguyễn Chí T4 (Sinh năm: 1990, trú tại thôn I, xã N, huyện C) để đi lại hàng ngày, T4 không biết P đã sử dụng để đi gây thương tích cho người khác nên Cơ quan điều tra không thu giữ.
* Về trách nhiệm dân sự:
Sau khi vụ án xảy ra, Huỳnh Minh V đã cùng gia đình đi lại thăm hỏi, hỗ trỡ chị Q cấp cứu cho anh T2 và đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho anh T2 tổng số tiền là: 60.000.000đ. Anh T3 đã nhận đủ số tiền trên, không còn yêu cầu gì khác và đã làm đơn bãi nại, xin giảm nhẹ cho bị cáo.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2023/HS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:
Tuyên bố Huỳnh Minh V, Nguyễn Quang P phạm tội: “Giết người”.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 15, Điều 57, Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Huỳnh Minh V 9 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/3/2023.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 15, Điều 57, Điều 54; Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang P 6 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/6/2023.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt đối với bị cáo khác, phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Kháng cáo Bị cáo Huỳnh Minh V không kháng cáo bản án sơ thẩm.
Ngày 21/9/2023, bị cáo Nguyễn Quang P có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm Bị cáo Nguyễn Quang P giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Ý kiến của Đại diện diện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng:
Khi được rủ đi đánh nhau Phúc đồng ý, thể hiện sự thống nhất ý chí với Huỳnh Minh V, trong vai trò giúp sức thực hiện hành vi phạm tội. Do thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 6 năm tù là phù hợp, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày:
Bị cáo P chở V đi nhưng không biết đánh người nào, không biết V mang theo dao, không tham gia đánh, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 6 năm tù là nặng, đề nghị xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
1 Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Quang P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; có đủ cơ sở kết luận:
Bị cáo V cho rằng anh T3 là người thứ 3 xen vào mối quan hệ tình cảm giữa V và vợ anh T3 hiện tại là chị Trần Thị Thanh Q trước đó vài năm nên chị Q mới bỏ V đi theo T3 rồi kết hôn với anh T3. Do vẫn còn tình cảm với chị Q nên V nảy sinh lòng căm ghét anh T3. Khoảng hơn 22h ngày 01/12/2022, sau khi đã uống rượu bia, trên đường về qua nhà anh T3 thì V nảy sinh ý định chém anh T3 nên nhờ P chở về nhà lấy dao để quay lại chém anh T3. Khi đến nhà anh T3, V vào nhà gọi anh T3 ra rồi lao đến chém 01 nhát vào vùng đầu của anh T3, anh T3 giơ tay phải qua đầu để đỡ thì bị chém vào tay. T3 ôm tay bỏ chạy ra sau bếp thì V tiếp tục đuổi theo, thì chị Q chạy ra chặn, xô đẩy và quỳ xuống ôm chân V giữ lại thì V mới dừng lại, sau đó Nguyễn Quang P vào kéo V ra khỏi nhà. Hậu quả anh T3 bị tổn hại 37% sức khoẻ. Hành vi của bị cáo Huỳnh Minh V dùng dao là hung khí nguy hiểm, chém 01 nhát vào đầu, là vùng trọng yếu trên cơ thể bị hại có thể dẫn đến hậu quả chết người.
2 Hành vi của bị cáo Huỳnh Minh V đã phạm tội “Giết người” với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự như bản án sơ thẩm đã qui kết là có căn cứ, đúng pháp luật.
3 Bị cáo Nguyễn Quang P không có mâu thuẫn với bị hại, nhưng khi nghe V rủ đi đánh anh T3 thì P đồng ý rồi chở V về nhà lấy dao, sau khi V chém anh T3 thì P tiếp tục điều khiển xe chở V rời khỏi hiện trường, bỏ mặc hậu quả xảy ra, do đó bị cáo P phải chịu trách nhiệm hình sự chung đối với hậu quả do bị cáo V gây ra với vai trò đồng phạm.
4 Hành vi của bị cáo Nguyễn Quang P là đồng phạm với bị cáo Huỳnh Minh V về tội “Giết người” với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự như bản án sơ thẩm đã qui kết là có căn cứ, đúng pháp luật.
5 Xét kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Quang P, thấy rằng:
Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ: bị cáo phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; đã bồi thường xong thiệt hại cho bị hại, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
6 Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng quy định về phạm tội chưa đạt theo Điều 15, khoản 3 Điều 57 và xét bị cáo P tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức, không trực tiếp gây thương tích cho bị hại, có vai trò thấp hơn bị cáo V, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đã áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo mức án 6 năm tù, dưới mức thấp của khung hình phạt là tương xứng với tính chất và mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không có cơ sở xét giảm hình phạt.
7 Bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang P; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2023/HS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 15, Điều 57, Điều 54; Điều 58 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang P 6 (sáu) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/6/2023.
2. Án phí hình sự phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Quang P phải chịu 200.000đ.
3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 598/2023/HS-PT về tội giết người
Số hiệu: | 598/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/12/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về