Bản án 59/2024/HS-ST về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 59/2024/HS-ST NGÀY 26/04/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 39 /2024/HSST ngày 29 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 49/2024/HSST-QĐ ngày 15 tháng 4 năm 2024, đối với bị cáo:

Bùi Tiến T, sinh ngày 11/ 5/ 2002 tại Phú Thọ; nơi cư trú: Khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị N; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/01/2024 đến nay (có mặt).

Bị hại: Anh Lò Văn P, sinh năm 2001; trú tại: Thôn Q, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Tiến T là công nhân Công ty TNHH Compal Việt Nam ở khu công nghiệp Bá Thiện, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Quá trình làm việc tại Công ty T có nhặt được 01 vé xe gửi xe mô tô của công nhân trong công ty nên nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô để làm phương tiện đi lại.T quan sát thấy khi ra vào cổng công ty, chỉ cần xuất trình vé xe là có thể dắt được xe ra ngoài nên khoảng 20h ngày 27/12/2023, T đi đến lán để xe ở tầng 4 của Công ty thấy xe mô tô BKS: 26B2 - 759.xx của anh Lò Văn P công nhân của Công ty, thấy xe không khóa cổ, khóa càng, quan sát không có ai, T đi đến vị trí để xe thò tay xuống vị trí giáp ổ khóa điện giật đứt dây khóa cốp - mục đích để mở được cốp xe cho bảo vệ kiểm tra, sau đó T dắt xe ra cổng công ty xuát trình vé xe và mở cốp xe cho ông Nguyễn Văn T (là bảo vệ) kiểm tra, sau khi nhận vé và kiểm tra cốp xe thấy không có tài sản gì nên ông T cho T dắt xe đi qua. Sau khi lấy trộm được xe mô tô T điều khiển đi về phòng trọ của mình ở TDP Tân Ngọc, TT Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tại đây T tháo gương chiếu hậu, tháo biển kiểm soát, tháo ổ khóa, tháo ốp bảo vệ pô của xe cất giấu dưới gầm giường. Khoảng 08 giờ ngày 28/12/2023, anh P đi ra lán lấy xe đi về thì phát hiện xe mô tô của mình đã bị mất trộm. Ngày 16/01/2024, anh P có nghi ngờ T là người đã trộm cắp xe nên anh đã làm đơn trình báo CQĐT Công an huyện Bình Xuyên đề nghị làm rõ đối tượng đã trộm cắp xe của anh.

Cùng ngày, CQĐT Công an huyện đã tiến hành khám xét chỗ ở của Bùi Tiến T ở TDP Tân Ngọc, TT Bá Hiến, huyện Bình Xuyên. Kết quả thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda màu sơn đỏ đen, 01 BKS: 26B2-759.xx, 01 ốp nhựa pô màu đen, 01 ổ khóa ký hiệu DKP3, 01 gương chiếu hậu, 01 quần của T để phục vụ công tác điều tra.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 09/KL - HĐĐGTS ngày 19/01/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Xuyên, kết luận: Giá trị của mô tô BKS: 26B2-759.xx đã cũ là 20.500.000đ Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda màu sơn đỏ đen, 01 BKS: 26B2- 759.xx, 01 ốp nhựa, 01 ổ khóa ký hiệu DKP3, 01 gương chiếu hậu xác định là tài sản của anh Lò Văn P. Ngày 14/3/2024, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại cho anh P. Sau khi nhận lại tài sản anh P không có yêu cầu, đề nghị gì đối với T.

Đối với 01 quần thu giữ của T cần tịch thu tiêu hủy.

Tại Cáo trạng số 49/CT-VKSBX ngày 28 tháng 3 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên đã truy tố bị cáo Bùi Tiến T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Bùi Tiến T từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 16/01/2024. Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Tiến T thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như bản cáo trạng, không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Bùi Tiến T khai nhận tội phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với vật chứng thu được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 20 giờ ngày 27/12/2023, tại tầng 4 lán để xe của Công ty TNHH Compal Việt Nam ở khu công nghiệp Bá Thiện, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, Bùi Tiến T đã lén lút trộm cắp của anh Lò Văn Phương 01 xe mô tô BKS: 26B2-759.xx có giá trị theo kết luận định giá là 20.500.000đ.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, làm quần chúng nhân dân hoang mang, lo sợ. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hôi đông xet xư nhân thây:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù nên theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm ít nghiêm trọng. Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt vì chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm i, s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Hiện tại trên địa bàn huyện Bình Xuyên tình trạng trộm cắp tài sản xảy ra ở công ty trong khu công nghiệp ngày càng gia tăng nên xét thấy, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cho bị cáo cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản, điều kiện kinh tế khó khăn nên cần miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu, đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 quần thu giữ của T không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Bùi Tiến T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Bùi Tiến T 01 năm 03 tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 16/1/2024).

Căn cứ khoản 1Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc quần thu giữ của T (Đặc điểm tang vật như biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/4/2024) Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án; buộc Bùi Tiến T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 59/2024/HS-ST về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:59/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;