Bản án 59/2021/HSST ngày 21/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH,TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 59/2021/HSST NGÀY 21/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 55/2021/TLST – HS ngày 08 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2021 đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Phạm Thanh L, sinh ngày 03/8/1987, tại tỉnh V Nơi ĐKHK và cư trú: thôn L, xã XL, huyện L, tỉnh V; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; bố đẻ: Phạm Văn L; mẹ đẻ: Quản Thị T; vợ: Nguyễn Thị Thanh H; có 02 con: lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2021; tiền án: có 1, tại Bản án số 67/2019/HSST ngày 25/12/2019, Toà án nhân dân huyện Tam Đảo xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/8/2020, chấp hành xong án phí và các quyết định khác của bản án; tiền sự: không;

Nhân thân:

+ Bản án số 101/2005/HSST ngày 09/9/2005, Toà án nhân dân huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước xử phạt 40 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Bản án số 09/2008/HSPT ngày 28/01/2008, Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/6/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.

2/ Họ và tên: Lê Văn C, sinh ngày 14/9/1987, tại tỉnh Vĩnh Phúc Nơi ĐKHK và cư trú: thôn R, xã XH, huyện L, tỉnh V; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; bố đẻ: Lê Văn H; mẹ đẻ: Nguyễn Thị X; vợ: Nguyễn Thị T (đã ly hôn); con: không; tiền án: không; tiền sự: có 01, ngày 10/02/2021 sử dụng trái phép chất ma túy, công an thị trấn Lập Thạch ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 36/QĐ-XPHC ngày 01/3/2021 (xử phạt 750.000đ). Bị cáo đã nộp phạt ngày 14/5/2021.

Nhân thân: Bản án số 28/2009/HSST ngày 28/5/2009, Toà án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/8/2013, chấp hành xong án phí và các quyết định khác của bản án ngày 10/7/2009.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 07/6/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.

- Bị hại:

1. Công ty TNHH MTV G – Địa chỉ: Thôn V, xã X, huyện L, tỉnh V Người đại diện theo pháp luật: Ông LWKUN – Tổng giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thế Q, sinh năm 1968; nơi cư trú: Thôn Đ, xã X, huyện L, tỉnh V (theo văn bản ủy quyền số 02/GUQ-GLT ngày 06/6/2021), vắng mặt;

2. Anh Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1985; nơi cư trú: Tổ dân phố V, thị trấn L, huyện L, tỉnh V, vắng mặt

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn L, xã X, huyện L, tỉnh V, vắng mặt;

2. Anh Lưu Văn D1, sinh năm 1978; nơi cư trú: Thôn R, xã X, huyện L, tỉnh V, có mặt

3. Anh Phạm Văn T, sinh năm 1972; nơi cư trú: Thôn T, xã X, huyện L, tỉnh V, vắng mặt;

4. Anh Đặng Lê C, sinh năm 1981; nơi cư trú: thị trấn L, huyện L, tỉnh V, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00’ ngày 07/6/2021, Phạm Thanh L đang ở cổng Trung tâm y tế huyện Lập Thạch thì gặp Lê Văn C. Do quen biết từ trước nên L rủ và được C đồng ý đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng. C điều khiển xe moto biển kiểm soát 88S4-3713 đưa L đến hiệu vàng Anh Phong 2 ở thị trấn Lập Thạch, huyện Lập Thạch. Đến nơi C đứng ngoài, còn L đi vào trong cửa hàng bán 01 nhẫn vàng (02 chỉ) được số tiền 10.380.000đ. Sau đó, C chở Lđi mua xilanh và nước cất hết 180.000đ. Trên đường đi L đưa cho C số tiền 500.000đ để mua ma túy, C lái xe chở L đến khu vực bãi rác gần Trung tâm Y tế huyện Lập Thạch gặp một người đàn ông tên Hưng, C hỏi mua và được Hưng bán cho 01 gói ma túy với giá 500.000đ. L cầm gói ma túy và cùng C đi đến đồi bạch đàn gần trung tâm y tế huyện Lập Thạch cùng nhau sử dụng một phần gói ma túy vừa mua được, phần ma túy còn lại L gói cho vào ví và đúc vào túi quần L đang mặc. Đến khoảng 10 giờ 45 phút cùng ngày, khi L và C đang đi đến tổ dân phố Phú Thượng, thị trấn Lập Thạch thì bị công an huyện Lập Thạch kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ tại túi quần phía sau bên phải L đang mặc 01 ví giả da bên trong có 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu vàng trắng, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng (niêm phong ký hiệu A1) , L và C khai nhận là gói ma túy heroine của L và C tàng trữ để cùng nhau sử dụng và thu giữ một số vật chứng liên quan.

Tại Bản kết luận giám định số 1284/KLGĐ ngày 10/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2470g (không phảy hai bốn bảy không gam, không kể bao bì) loại Heroine.

Quá trình điều tra L còn khai nhận trước đó L một mình trộm cắp tài sản 02 vụ, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 21 giờ ngày 05/06/2021 L nảy sinh ý định vào công ty TNHH MTV giày da Lập Thạch đóng tại xã Xuân Lôi, huyện Lập Thạch trộm cắp máy tính. L đi bộ men theo tường phía sau xưởng đế rồi trèo qua tường rào vào trong công ty sau đó chui qua lỗ hổng phòng máy hút bụi vào trong xưởng làm đế giày. L đi đến chỗ làm việc của chủ quản xưởng đế và trộm cắp 02 bộ máy tính (gồm: 02 cây máy tính, 02 màn hình, 02 bàn phím, 02 dây nguồn và 02 chuột máy tính). Tiếp đó L đi sang phòng mẫu trong xưởng đế trộm cắp 01 bộ máy tính (gồm: 01 cây máy tính, 01 màn hình, 01 bàn phím, 01 dây nguồn và 01 chuột máy tính). Sau khi trộm cắp được, L cất 03 bộ máy tính vào 02 bao tải (L nhặt trong xưởng) rồi xách hai bao tải đó đi ra cửa phía sau xưởng đế, mở khóa cửa (khóa cửa có cài chìa khóa) rồi trèo tường ra ngoài đem về nhà anh Phạm Văn T - sinh năm 1972 (là bạn của L) ở thôn T, xã X, huyện L thì thấy cửa mở, không có ai ở nhà nên L cất giấu vào trong buồng ngủ nhà anh T rồi đi về. Đến ngày 07/6/2021, Cơ quan điều tra đã tạm giữ toàn bộ số vật chứng trên.

Ngày 15/6/2021 Hội đồng định giá tải sản trong tố tụng hình sự huyện Lập Thạch ra Kết luận định giá tài sản số 488/KL-HĐĐG: 03 bộ máy tính nhãn hiệu HP có đủ màn hình, bàn phím, chuột, cây máy tính có tổng trị giá là 12.200.000đ.

Vụ thứ hai: Khoảng 21 giờ ngày 06/06/2021, L nhảy qua bờ tường rào vào phía sau nhà anh Nguyễn Ngọc D ở tổ dân phố V, thị trấn L, huyện L thì thấy không có ai ở nhà nên L nảy sinh ý định vào nhà anh D để trộm cắp tài sản. L quan sát thấy nhà anh D có lắp camera nên L nhặt 01 cây gậy nhựa đẩy mắt camera chếch lên trên và dùng 01 thang sắt (loại thang dắt xe máy) cậy song sắt cửa sổ rồi chui qua cửa sổ này vào trong nhà anh D trộm cắp: 01 hộp nhựa màu đỏ bên trong có 01 nhẫn vàng tròn trơn, 01 túi màu đỏ có quai đeo bên trong có một số giấy tờ xe, 01 đồng hồ nhãn hiệu CITIZEN, 01 ba lô màu xám, 01 điện thoại đen trắng, 01 máy ảnh CANON, 01 đồng hồ nhãn hiệu GUOU, 01 áo cộc tay, 01 quần bò dài màu xanh, 01 đôi giày đen, 01 mũ le (mũ lưỡi trai). Sau đó, L đi ra theo lối cũ ra ngoài.

Ngày 18/6/2021 Hội đồng định giá tải sản trong tố tụng hình sự huyện Lập Thạch ra Kết luận định giá tài sản số 489/KL-HĐĐG: 01 nhẫn tròn, loại nhẫn trơn vàng loại 9999, trọng lượng 02 chỉ; 01 đồng hồ đeo tay nữ hiệu GUOU; 01 đồng hồ đeo tay nam hiệu CITIZEN; 01 túi giả da màu đỏ có quai đeo; 01 ba lô màu xám đã cũ; 01 máy ảnh nhãn hiệu CANON; 01 điện thoại đen trắng màu xanh; 01 đôi giày lười màu đen; 01 chiếc áo cộc tay; 01 quần bò màu xanh; 01 mũ le màu đen. Tổng trị giá toàn bộ tài sản trên là 19.330.000đ Đối với người đàn ông tên Hưng bán ma túy. Do L và C không biết lai lịch của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý.

Đối với anh Phạm Văn T - sinh năm 1972 ở thôn T, xã X, huyện L. Ngày 05/6/2021, sau khi trộm cắp 03 bộ máy tính của công ty TNHH MTV giày da Lập Thạch, L đem về cất giấu tại buồng ngủ của nhà anh T. Quá trình điều tra xác định, anh T và L không trao đổi bàn bạc gì và không biết L cất giấu tài sản trộm cắp tại buồng ngủ nhà mình nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với anh Đặng Lê C (là chủ cửa hiệu vàng bạc Anh Phong 2) đã mua 01 chiếc nhẫn vàng tròn trơn của L, anh C không biết do L trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

*Vât chưng vu an:

- Thu giữ 0,2470g ma túy heroine, mẫu hoan lại sau giam đinh 0,1896g cùng toàn bộ bao gói ; 02 bao tải xác rắn; 01 ví giả da màu nâu, 01 chiếc mũ cối, 01 áo cộc tay, 01 quần bò dài; 03 bộ máy tính (gồm: 03 cây máy tính, 03 màn hình, 03 bàn phím, 03 dây nguồn và 03 chuột máy tính); 01 ống nhựa dài, 01 thang sắt; 01 đồng hồ nhãn hiệu CITIZEN, 01 đồng hồ nhãn hiệu GUOU, 01 điện thoại đen trắng màu xanh, 01 túi giả da màu đỏ có quai đeo, 01 ba lô màu xám đã cũ, 01 máy ảnh hiệu CANON, 01 đôi giày màu đen, 01 áo cộc tay, 01 quần bò dài màu xanh, 01 mũ lưỡi trai màu đen, 01 giấy phép lái xe, 01 đăng ký xe máy mang tên Nguyễn Ngọc Lương; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone; 01 xe mô tô biển kiểm soát 88S4-3713; số tiền 9.700.000đ.

* Về dân sự: Công ty TNHH MTV giày Lập Thạch đã nhận lại 03 bộ máy tính và anh Nguyễn Ngọc D đã nhận lại tài sản bị trộm cắp nên không có yêu cầu bồi thường gì thêm. Đối với số tiền 680.000đ, L đã mua ma túy và tiêu xài cá nhân hết, anh D không yêu cầu L phải trả lại. Đối với việc L làm hỏng thanh sắt cửa sổ (trị giá 400.000đ) của gia đình anh D, anh D xin tự khắc phục sửa chữa và không yêu cầu L phải bồi thường gì.

Tại bản cáo trạng số: 58/CT-VKS-LT ngày 06 tháng 9 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch truy tố Phạm Thanh L về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249, Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và Lê Văn C về tội : “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch luận tội đối với các bị cáo Phạm Thanh L và Lê Văn C; giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Sau khi đánh giḠtính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Phạm Thanh L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” , “Trộm cắp tài sản” và bị cáo Lê Văn C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249, Khoản 1 Điều 173; Điểm s, r Khoản 1 Điều 51; Điểm g, h Khoản 1 Điều 52, Điều 55 Bộ luật hình sự đối với L; xử phạt bị cáo từ 01 năm 05 tháng tù đến 01 năm 07 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 01 năm 10 tháng tù đến 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hai tội buộc bị cáo phải chấp hành chung từ 03 năm 03 tháng tù đến 03 năm 07 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam.

Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với C; xử phạt bị cáo từ 01 năm 04 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng vụ án; các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo L, C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận.

Người tham gia tố tụng không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo L, C nói lời sau cùng: Các bị cáo biết hành vi của mình là sai trái, bị cáo rất hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về tố tụng: Tại phiên tòa, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị H, anh T, anh C vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy: bị hại, chị H, anh T, anh C đã có lời khai đầy đủ trong quá trình điều tra, việc vắng mặt của bị hại, chị H, anh T, anh C không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt bị hại, chị H, anh T, anh C.

[2] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên tòa các bị cáo Phạm Thanh L, Lê Văn C đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch đã truy tố. Xét lời nhận tội của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, biên bản phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để xác định: Trong khoảng thời gian từ ngày 05/6/2021 đến ngày 07/6/2021, Phạm Thanh L đã một mình thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản và cùng với Lê Văn C tàng trữ trái phép chất ma túy. Cụ thể như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 05/6/2021, L trộm cắp 03 bộ máy tính trị giá 12.200.000đ của công ty TNHH MTV giày da Lập Thạch ở xã Xuân Lôi, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

Đến khoảng 21 giờ ngày 06/6/2021, tại nhà ở của anh Nguyễn Ngọc D ở tổ dân phố V, thị trấn L, huyện L; L tiếp tục trộm cắp của gia đình anh D: 01 nhẫn vàng (trọng lượng 02 chỉ); 02 đồng hồ đeo tay; 01 túi giả da; 01 ba lô; 01 máy ảnh; 01 điện thoại đen trắng; 01 đôi giày; 01 chiếc áo cộc tay; 01 quần bò. Tổng trị giá tài sản 19.330.000đ.

Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 07/6/2021, tại tổ dân phố Phú Thượng, thị trấn Lập Thạch, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, Phạm Thanh L và Lê Văn C có hành vi tàng trữ trái phép 0,2470g heroine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an huyện Lập Thạch bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi pham tôi nê u trên của Phạm Thanh L và Lê Văn C đã phạm vào tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, L đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đã phạm vào tội“Trộm cắp tài sản” quy định Kkhoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…c) Heroine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:” Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; bị cáo Liêm còn lười lao động, không chịu khó làm ăn chân chính, lợi dụng sơ hở của người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi của các bị cáo đã gây mất trật tự trị an ở địa phương; gây dư luận xấu, bất bình trong nhân dân. Bên cạnh đó, các bị cáo tàng trữ tái phép ma túy để sử dụng, gây nghiện cho bản thân và kéo theo là các hậu quả xấu cho sức khỏe bản thân, kinh tế gia đình sa sút và ảnh hưởng xấu đến xã hội.

Trước khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét đến tính chất cũng như mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, hậu quả xảy ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, thấy rằng:

Bị cáo Phạm Thanh L là người có vai trò chính, là người khởi xướng và phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, trộm cắp tài sản. Bản thân bị cáo có 01 tiền án: năm 2019, bị Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngoài ra, năm 2005, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước và năm 2008, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt về tội “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích) nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà vẫn cố ý vi phạm, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Do vậy, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cần phải xử bị cáo mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự thú về hành vi phạm tội nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm r, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” và “phạm tội nhiều lần” theo Điểm g, h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Lê Văn C là người trực tiếp thực hiện tội phạm một cách tích cực nên phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản thân bị cáo cũng là người có nhân thân xấu. Mặc dù, năm 2009 Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 07 năm tù về tội “ Cướp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong các quyết định tại Bản án và tính đến thời điểm phạm tội bị cáo đã được xóa án tích; ngoài ra, ngày 10/02/2021, bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy, bị công an thị trấn Lập Thạch ra Quyết định xử phạt 750.000đ, đã nộp phạt ngày 14/5/2021 nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà vẫn cố ý vi phạm pháp luật, trực tiếp cầm tiền đi mua ma túy để về sử dụng cùng với bị cáo L, gây nghiện ma túy cho bản thân. Điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo nên cần xử phạt bị cáo một mức án tù để cải tạo giáo dục bị cáo thành người công dân tốt cho xã hội. Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Qua xem xét điều kiện, hoàn cảnh của các bị cáo thấy rằng: các bị cáo L, C đều là người nghiện ma túy, lao động tự do, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Đối với người đàn ông tên Hưng bán ma túy cho C, do L và C không biết lai lịch của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý là có căn cứ.

Đối với anh Phạm Văn T: Ngày 05/6/2021, sau khi trộm cắp 03 bộ máy tính của công ty TNHH MTV giày da Lập Thạch, L đem về cất giấu tại buồng ngủ của nhà anh T. Quá trình điều tra xác định, anh T và L không trao đổi bàn bạc gì và không biết L cất giấu tài sản trộm cắp tại buồng ngủ nhà mình nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

Đối với anh Đặng Lê C (là chủ cửa hiệu vàng bạc Anh Phong 2) đã mua 01 chiếc nhẫn vàng tròn trơn của L, anh C không biết do L trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 0,2470g ma túy heroine, mẫu hoàn lại sau giam đinh 0,1896g cùng toàn bộ bao gói là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu, tiêu hủy;

- 02 bao tải xác rắn, 01 ví giả da màu nâu, 01 chiếc mũ cối, 01 áo cộc tay, 01 quần bò dài thu giữ của L không còn giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 03 bộ máy tính, 01 ống nhựa dài, 01 thang sắt, 01 đồng hồ nhãn hiệu CITIZEN, 01 đồng hồ nhãn hiệu GUOU, 01 điện thoại đen trắng màu xanh, 01 túi giả da màu đỏ có quai đeo, 01 ba lô màu xám đã cũ, 01 máy ảnh hiệu CANON, 01 đôi giày màu đen, 01 áo cộc tay, 01 quần bò dài màu xanh, 01 mũ lưỡi trai màu đen, 01 giấy phép lái xe, 01 đăng ký xe Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại là đúng chủ sở hữu, cần xác nhận.

- Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone thu giữ của L: Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Thanh H (là vợ của L), không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho chị H.

- Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 88S4-3713 thu giữ của Lê Văn C là tài sản hợp pháp của anh Lưu Văn D1. Ngày 07/6/2021, anh D1 cho C mượn xe và không biết C dùng xe đi mua ma túy nên cần trả lại cho anh D1.

- Đối với 01 hộp nhựa màu đỏ (đựng 01 nhẫn vàng L trộm cắp của gia đình anh D). L khai nhận đã vứt bỏ hộp nhựa trên, cơ quan điều tra tiến hành truy tìm nhưng không thu giữ được nên không có căn cứ xử lý.

- Đối với chiếc nhẫn L bán cho cửa hàng Vàng bạc Anh Phong 2, anh C (chủ cửa hàng vàng bạc) đã bán chiếc nhẫn trên cho khách hàng không quen biết nên cơ quan điều tra không thu giữ được nên không có căn cứ xử lý.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Công ty TNHH MTV Giày da Lập Thạch và anh Nguyễn Ngọc D đã nhận lại được tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm. Do vậy, vấn đề trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Khoản 1 Điều 173; Điểm s, r Khoản 1 Điều 51; Điểm g, h Khoản 1 Điều 52; Điều 55 Bộ luật Hình sự

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thanh L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và “Trộm cắp tài sản”

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thanh L 01 (một) năm 07 (bảy) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 03 (ba) năm 07 (bảy) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 07/6/2021).

2. Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn C 01 (một ) năm 06 (sáu ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 07/6/2021.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

Tịch thu, tiêu hủy: 0,1896g ma túy heroine mẫu hoan lại sau giam đinh cùng toàn bộ bao gói ; 02 bao tải xác rắn; 01 ví giả da màu nâu, 01 chiếc mũ cối, 01 áo cộc tay, 01 quần bò dài.

Trả lại cho: chị H 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone; anh Lưu Văn D1 01 xe mô tô biển kiểm soát 88S4-3713.

(Toàn bộ vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/9/2021).

Xác nhận Cơ quan điều tra đã trả lại cho công ty TNHH MTV giày da Lập Thạch 03 bộ máy tính; trả lại cho anh Nguyễn Ngọc D: 01 ống nhựa dài, 01 thang sắt; 01 đồng hồ nhãn hiệu CITIZEN, 01 đồng hồ nhãn hiệu GUOU, 01 điện thoại đen trắng màu xanh, 01 túi giả da màu đỏ có quai đeo, 01 ba lô màu xám đã cũ, 01 máy ảnh hiệu CANON, 01 đôi giày màu đen, 01 áo cộc tay, 01 quần bò dài màu xanh, 01 mũ lưỡi trai màu đen, 01 giấy phép lái xe, 01 đăng ký xe là đúng chủ sở hữu.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Phạm Thanh L, Lê Văn C: mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 59/2021/HSST ngày 21/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và trộm cắp tài sản

Số hiệu:59/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;