TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 59/2021/HSST NGÀY 13/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 13 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2021/HSST ngày 17 tháng 6 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2021/QĐXXST – HS ngày 25 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
Lò Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1980 tại: Huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản M L, xã M L, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Lào; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông: Lò Văn M (Đã chết) và bà Lò Thị B, sinh năm: 1946; bị cáo có vợ là: Lò Thị X, sinh năm: 1983 và có 03 con (Lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2014); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/9/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 20 tháng. Trong vụ án này bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/3/2021 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Sốp Cộp, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Lò Thị X, sinh năm 1983; nghề nghiệp: Trồng trọt; nơi cư trú: Bản M L, xã M L, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 16 giờ 15 phút ngày 15/3/2021, tại khu vực bản Cống, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, tổ công tác Đồn Biên phòng Mường Lạn phối hợp với Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La trong quá trình làm nhiệm vụ đã phát hiện bắt quả tang đối tượng Lò Văn T (Sinh năm: 1980, trú tại: Bản M L, xã M L, huyện Sốp Cộp) về hành vi cất dấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm:
- Thu giữ bên trong cốp xe mô tô của Lò Văn T đang quản lý 01 gói ni lon màu trắng, bên trong có chứa 12 (Mười hai) viên nén hình trụ tròn màu hồng nghi là ma túy;
- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu ANGEL, màu sơn xanh - đen, biển kiểm soát: 26H6 - 6681;
- 01 chứng minh thư mang tên Lò Văn T;
- 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Lò Văn Hoan.
Ngày 16/3/2021, tại cơ quan CSĐT Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã tiến hành cân tịnh số 12 viên nén đồng dạng hình trụ tròn màu hồng thu giữ của Lò Văn T, có khối lượng là 1,14 gam (Một phẩy mười bốn gam). Sử dụng toàn bộ 1,14 gam ký hiệu T làm mẫu gửi giám định.
Tại bản Kết luận giám định số: 601 ngày 17/3/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:
- Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,14 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1,14 gam, loại Methamphetamine.
Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, bị can Lò Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội như sau:
Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 15/3/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Lò Văn T một mình điều khiển xe mô tô BKS: 26H6 - 6681 đi từ nhà tại bản M L, xã M L, huyện Sốp cộp đến bản Pu Hao, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp để mua ma túy sử dụng. Khi đến bản Pu Hao thì Tin gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết 12 viên hồng phiến được gói bằng mảnh ni lon màu trắng với giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy thì T cất vào cốp xe mô tô rồi điều khiển xe về nhà, khi đến chân dốc Than, thuộc khu vực bản Cống, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng Mường Lạn phối hợp với Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La phát hiện bắt quả tang cùng số vật chứng là gói ni lon màu trắng bên trong có 12 viên hồng phiến được cất dấu trong cốp xe mô tô như đã nêu.
Tại bản Cáo trạng số: 36/CT - VKS ngày 16/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Lò Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, giữ quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn T, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Điều 38 Bộ luật hình sự;
- Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 24 đến 30 tháng tù.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, đối với bị cáo.
Xử lý vật chứng:
Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 0,87 gam ma túy, loại Methamphetamine (Số còn lại không sử dụng đến trong quá trình giám định) và 01 mảnh ni lon màu trắng.
Hoan.
- Tuyên trả lại cho người có quyền lợi liên quan là Lò Thị X (Vợ bị cáo):
+ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu ANGEL, biển kiểm soát: 26H6 - 6681;
+ 01 giấy đăng ký xe mô tô biển kiểm soát: 26H6 - 6681 mang tên Lò Văn - Tuyên trả lại cho bị cáo: 01 chứng minh thư mang tên Lò Văn T.
Về án phí: Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Miễn cho bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa bị cáo có ý kiến: Thừa nhận ngày 15/3/2021 đã bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 1,14 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Nay bị cáo đã biết tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa người có quyền lợi liên quan Lò Thị X có ý kiến: Vật chứng là chiếc xe mô tô BKS: 26H6 - 6681 là tài sản chung của vợ chồng chị với bị cáo. Việc bị cáo sử dụng xe làm phương tiện đi mua ma túy chị không biết, do vậy đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc xe và đăng ký xe cho chị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và người có quyền lợi liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về nội dung: Ngày 15/3/2021, bị cáo Lò Văn T (Có căn cước lý lịch như trên) đã bị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép 1,14 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy sử dụng cho bản thân là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ là ma túy; kết luận giám định về ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn T đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) … c) Heroine, Cocaine,Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.".
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước hết là xâm hại đến chính sức khỏe, tài sản của bị cáo; sau là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng; là nguyên nhân làm phát sinh, lây lan tệ nạn sử dụng trái phép chất ma túy trong xã hội hiện nay. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ý thức chấp hành pháp luật.
[4] Tình tiết tăng nặng: Không có.
[5] Tình tiết nhân thân: Ngày 28/9/ 2016 bị cáo bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 20 tháng. Mặc dù tính đến thời điểm phạm tội trong vụ án này đã được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính (Khoản 2 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính), tuy nhiên cũng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu để làm căn cứ quyết định hình phạt, theo quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự.
[6] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội; bị cáo có bố là ông Lò Văn M được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, nên được xem xét, áp dụng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[7] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.
[8] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào biên bản xác minh xác định bị cáo thuộc hộ gia đình nghèo, không có tài sản để thi hành. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng.
[9] Xử lý vật chứng:
- Đối với 0,87 gam Methamphetamine (Số còn lại không sử dụng đến trong quá trình giám định) là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và là vật nhà nước cấm lưu hành. Do vậy cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự để tuyên tịch thu tiêu hủy cùng với 01 mảnh ni lon màu trắng.
- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu ANGEL, BKS: 26H6 - 6681 quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định chiếc xe là tài sản chung của vợ chồng bị cáo, xe có nguồn gốc do vợ bị cáo là Lò Thị X mua của chị Lò Thị Huệ (Trú tại tiểu khu Tiền Phong 01, xã Hát Lót, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La) với giá 3.000.000 đồng. Việc bị cáo sử dụng xe làm phương tiện đi mua ma túy, chị X không biết, ngoài ra chiếc xe này là tài sản duy nhất có giá trị của gia đình bị cáo. Do vậy cần áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; để tuyên trả lại chiếc xe cùng giấy đăng ký xe cho người có quyền lợi liên quan là chị Lò Thị X.
- Đối với 01 Chứng minh nhân dân mang tên bị cáo. Xét là giấy tờ chứng minh nhân thân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội và lẽ ra cần tuyên trả cho bị cáo. Tuy nhiên giấy chứng minh nhân dân nói trên được cấp từ năm 2003 nên không còn giá trị sử dụng. Do vậy cần áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; để tuyên tịch thu tiêu hủy.
[10] Đối với nguồn gốc ma túy bị bắt giữ, theo bị cáo khai do mua của 01 người đàn ông dân tộc Mông không quen biết tại khu vực bản Pu Hao, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La ngày 15/3/2021. Quá trình điều tra do bị cáo không cung cấp được tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng cụ thể của đối tượng. Nên không có cơ sở để điều tra xử lý.
[11] Bị cáo thuộc hộ gia đình nghèo theo quy định của Chính phủ, nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
[12] Bị cáo và người có quyền lợi liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;
- Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
- Xử phạt bị cáo Lò Văn T 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 15/3/2021 (Ngày bắt giữ bị cáo).
Căn cứ khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Tiếp tục tạm giam bị cáo Lò Văn T trong hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.
2. Xử lý vật chứng:
Căn cứ điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
- Tuyên tịch thu tiêu huỷ:
+ 01 (Một) phong bì thư của Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã được niêm phong dán kín bằng giấy niêm phong, một mặt phong bì ghi: " Vật chứng vụ: Lò Văn T - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 15/3/2021 tại bản Cống, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; bên trong có chứa 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh ni lon màu trắng".
+ 01 (Một) phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, đã được niêm phong dán kín. Mặt trước phong bì ghi: " CÔNG AN TỈNH SƠN LA, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, PHONG BÌ NIÊM PHONG. Vật chứng vụ: Lò Văn T - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 15/3/2021, tại xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Niêm phong hồi 14 giờ 00 phút, ngày 17 tháng 3 năm 2021. Tại: Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La. Gồm có: Phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + 01 (Một) túi ni lon màu trắng chứa chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu T, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,87 gam".
(Theo kết luận giám định số: 601 ngày 17/3/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La thì chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu T, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,87 gam là ma túy; loại Methamphetamine).
+ 01 giấy chứng minh nhân dân số: 050502485, cấp ngày 28/9/2003 mang tên Lò Văn T.
- Tuyên trả lại cho người có quyền lợi liên quan đến vụ án là chị Lò Thị X:
+ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu ANGEL, màu sơn xanh - đen, biển kiểm soát: 26H6 - 6681, số khung trùng số máy: 017008 (Đã cũ qua sử dụng);
+ 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số: 0057383 mang tên Lò Văn H, trú tại bản Tưn, xã Xuân Nha, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
3. Án phí:
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Miễn cho bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo:
Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
Báo cho bị cáo và người có quyền lợi liên quan đến vụ án là chị Lò Thị X biết quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (13/7/2021).
Bản án 59/2021/HSST ngày 13/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 59/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về