Bản án 59/2020/HS-ST ngày 27/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 59/2020/HS-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long, tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 57/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 66/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Võ Hoàng A, sinh năm 1986; tại: tỉnh Đồng Tháp; tên gọi khác: V; nơi cư trú: Số M ấp Đ, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Tháp; Dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Làm thuê; Cha: Không biết tên và mẹ là bà Võ Thị Đ, sinh năm 1952; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: 01 lần vào ngày 04/4/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đã chấp hành xong hình phạt ngày 13/02/2015;

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 09/7/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong ngày 13/02/2015.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/5/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Châu Thanh D, sinh năm 1985; nơi cư trú: Số E, Khóm B, Phường , thành phố L, tỉnh Vĩnh Long (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Hồng Thanh H, sinh năm 1977; nơi cư trú: Số C đường H, phường K, quận K, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 28/4/2020, bị cáo Võ Hoàng A điều khiển xe môtô 67F5-1420 chạy vòng quanh địa bàn thành phố Vĩnh Long để tìm tài sản lấy trộm. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày Hoàng A điều khiển xe mô tô đi trên đường T theo hướng từ Phường B về Phường M, thành phố Vĩnh Long, khi đến đoạn trước tiệm vải tại số B đường T, Phường B, thành phố Vĩnh Long thì Hoàng A phát hiện xe mô tô hiệu FUTURE 64B2- 120.68 của anh Châu Thanh D đang đậu không có người trông coi, chìa khóa vẫn còn cắm trong ổ khóa xe nên Hoàng A nảy sinh ý định lấy trộm xe này. Sau đó Hoàng A điều khiển chạy xe qua lại khu vực này nhiều lần để quan sát tình hình, khi thấy trong tiệm vải không có người thì Hoàng A liền bỏ xe môtô 67F5-1420 của mình đang chạy cách tiệm vải khoảng 150 mét về hướng Phường M, thành phố Vĩnh Long rồi đi bộ lại lén lút lấy trộm xe môtô 64B2-120.68 của anh D rồi điều khiển xe chạy về hướng cầu Cần Thơ.

Khi đến khu vực dốc cầu Cần Thơ thì Hoàng A dừng xe 64B2-120.68 lại mở cốp xe kiểm tra thì phát hiện có các đồ vật, tài sản và giấy tờ sau: 01 hộp nhựa ốc vít màu vàng cam, 01 giấy đăng ký xe 64B2-120.68 (bản phô tô có công chứng), 01 sổ hộ khẩu phô tô, 01 cây hàn điện chấm chì, 01 giấy trả góp xe, 01 lọ thuốc. Hoàng A chỉ giữ lại hộp nhựa ốc vít màu vàng cam và 01 giấy đăng ký xe 64B2-120.68 (bản phô tô có công chứng tên Huỳnh Thị L ngụ ấp B, xã P, huyện H, tỉnh Vĩnh Long), còn những vật khác Hoàng A vứt bỏ ven đường. Sau đó Hoàng A điều khiển xe 64B2-120.68 đến tiệm game bắn cá 168 tại quận K, thành phố Cần Thơ để chơi game thì gặp anh Hồng Thanh H nên nhờ anh H cầm xe 64B2-120.68 với giá 13.000.000 đồng. Khi nhờ cầm xe Hoàng A đưa cho anh H 01 giấy phép lái xe của mình và giấy đăng ký xe 64B2-120.68 và nói với anh H rằng “Xe mua trả góp nhờ chị dâu đứng tên dùm” nên anh H đồng ý cầm xe và kêu Hoàng A ký tên vào giấy cam kết. Hoàng A chơi game được khoảng 4 giờ thì xin anh H cho chuộc lại xe để làm phương tiện đi lại, sau đó đến ngày 03/5/2020 Hoàng A tiếp tục gặp anh H cầm xe mô tô 64B2-120.68 với giá 15.000.000 đồng. Ngày 15/5/2020 Hoàng A tiếp tục đến thành phố Vĩnh Long tìm tài sản lấy trộm thì bị Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Long phát hiện mời làm việc.

Theo Kết luận định giá tài sản số 42/HĐĐG&TTHS ngày 19/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản thì xe mô tô 64B2-120.68 có giá trị 26.520.000 đồng.

Tại cáo trạng số: 64/CT-VKSTPVL ngày 27/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long truy tố bị cáo tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Hoàng A mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Châu Thanh D đã nhận lại xe mô tô 64B2- 120.68 và không yêu cầu bị bồi thường thêm nên không đặt ra giải quyết.

Buộc bị cáo phải trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Hồng Thanh H số tiền 15.000.000 đồng đã cầm xe 64B2-120.68 cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) túi da màu đen hiệu Jeep-BULUO đã qua sử dụng; 01 (một) hộp đựng ốc vít màu vàng cam hiệu XinRui đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Võ Hoàng A 01 (một) giấy phép lái xe tên Võ Hoàng A. Án phí: Buộc bị cáo Võ Hoàng A nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Lời nó sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục và thời hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long và Kiểm sát viên đã thực hiện là hợp pháp. [2] Tại phiên tòa bị cáo Võ Hoàng A đã thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố. Bị cáo đã lợi dụng sơ hở của bị hại Châu Thanh D trong việc trông giữ tài sản nên đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp tài sản của bị hại là 01 xe mô tô hiệu FUTURE 64B2-120.68, trị giá tài sản bị cáo trộm cắp là 26.520.000 đồng vào ngày 28/4/2020 tại phía trước tiệm vải số B đường T, Phường B, thành phố L, tỉnh Vĩnh Long. Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo đã phạm tội trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long truy tố là chính xác.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tác động xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây tâm lý hoang mang lo lắng cho quần chúng nhân dân trong việc giữ gìn, quản lý tài sản. Bị cáo là người có sức khỏe, có khả năng lao động để nuôi sống bản thân nhưng không chí thú lao động mà cố tình chiếm đoạt thành quả lao động của người khác để thỏa mãn cho nhu cầu bản thân. Bị cáo có nhân thân xấu từng nhiều lần bị xử phạt về tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không chịu sửa đổi để trở thành người có ích cho xã hội mà lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác, cho thấy bản chất xem thường pháp luật của bị cáo. Do đó cần phải xử lý nghiêm, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 04/4/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích thì lại phạm tội mới. Do đó lần phạm tội này bị cáo còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa có thái độ thành khẩn khai báo; ăn năn, hối cải đối với hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử sẽ xem xét cho bị cáo khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Châu Thanh D đã nhận lại xe mô tô 64B2-120.68 và không yêu cầu bồi thường thêm nên không đặt ra giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Hồng Thanh H yêu cầu bị cáo Võ Hoàng A trả lại số tiền 15.000.000 đồng tiền đã nhận cầm xe 64B2-120.68 và bị cáo Hoàng Anh cũng đồng ý trả cho anh H nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về vật chứng: Đối với 01 (một) túi da màu đen hiệu Jeep-BULUO đã qua sử dụng; 01 (một) hộp đựng ốc vít màu vàng cam hiệu XinRui đã qua sử dụng không còn giá trị, bị cáo và bị hại cũng không có yêu cầu gì nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 (một) giấy phép lái xe tên Võ Hoàng A là của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

[7] Đối với Hồng Thanh H khi nhận cầm xe mô tô 64B2 – 120.68 có hỏi bị cáo về nguồn gốc xe, bị cáo nói “Xe mua trả góp và nhờ chị dâu đứng tên” nên anh không biết là tài sản do phạm tội mà có. Do đó, hành vi của anh H không đủ dấu hiện cấu thành tội phạm nên không bị xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Võ Hoàng A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Võ Hoàng A 02 (hai) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày 15/5/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 579 và 580 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Võ Hoàng A trả cho anh Hồng Thanh H số tiền là 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Các vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/7/2020 giữa Công an thành phố Vĩnh Long và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vĩnh Long được xử lý như sau:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) túi da màu đen hiệu Jeep-BULUO đã qua sử dụng; 01 (một) hộp đựng ốc vít màu vàng cam hiệu XinRui đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Võ Hoàng A 01 (Một) giấy phép lái xe tên Võ Hoàng A.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Võ Hoàng A nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 59/2020/HS-ST ngày 27/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:59/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;