Bản án 59/2020/HS-ST ngày 25/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 59/2020/HS-ST NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2020/QĐXXS-HS ngày 11 tháng 5 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phùng Công C, sinh ngày 24 tháng 8 năm 1986 tại Uông Bí, Quảng Ninh; nơi cư trú: Tổ 8, khu 9, phường T, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: nam; con ông Phùng Văn T và bà Nguyễn Thị T; có vợ, chưa có con; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 12/12/2007, bị Tòa án nhân dân huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh (nay là Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên) xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 08/01/2014, bị Công an phường Thanh Sơn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 04/QĐ-XPVPHC với số tiền 1.5000.000 đồng về hành vi “Trực tiếp xâm hại sức khỏe của người khác”. Ngày 26/10/2015, bị Công an phường Quang Trung, thành phố Uông Bí ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 02/QĐ-XPVPHC với mức phạt cảnh cáo, về hành vi đánh bạc.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 19/02/2020 và tạm giam 28/02/2020, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí; có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Đoàn Thanh C, Nguyễn Thị M; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 50 phút, ngày 19/2/2020, Phùng Công C một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 14Y1-292.18 đi từ nhà ở tổ 8, khu 9, phường T, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đến nhà một người đàn ông tên N tại khu 1, phường T, tỉnh Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh để hỏi mua lan về trồng. Khi đi qua khu vực đường tàu phường T, C nhặt được dưới nền đường 01 túi nilon màu trắng, C xác định đúng loại ma túy đá C hay dùng. C cầm túi ma túy bằng tay trái rồi điều khiển xe mô tô đến nhà người đàn ông tên N nhưng không mua được lan. Sau đó, đến khoảng 12 giờ 10 cùng ngày, khi C đi từ nhà người đàn ông tên N khoảng được 100 mét để về nhà thì bị tổ công tác của Công an phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 3, khu 1, T thì phát hiện, bắt quả tang Phùng Công C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình kiểm tra, C đã dùng tay trái thả xuống nền đường cách vị trí C đang đứng 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (2,5x2,5)cm. C khai đây là ma túy C nhặt được, mang về mục đích sử dụng. Ngoài ra, lực lượng công an còn tạm giữ cửa C số tiền 125.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu trắng – đen biển kiểm soát 14Y1-292.18.

Tại bản Kết luận giám định số 183/GĐMT ngày 27/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: vật chứng gửi giám định (là chất tinh thể màu trắng thu của C) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,374g.

Tại bản Cáo trạng số 52/CT – VKSUB ngày 22 /4/2020, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố bị cáo Phùng Công C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung vụ án đã nêu và thừa nhận bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.

Những người chứng kiến ông Đoàn Thanh C và chị Nguyễn Thị M vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai thể hiện trong hồ sơ (tại các bút lục từ 40 đến 52).

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phùng Công C với mức hình phạt từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/02/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì số 183/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh bên trong đựng ma túy thu giữ của bị cáo, được hoàn lại sau giám định và trả lại bị cáo số tiền 125.000 đồng là tài sản thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội.

Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của Viện kiểm sát; Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng: Những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt:

2.1 Về tội danh:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của những người chứng kiến và phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của vụ án, kết luận giám định cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 12 giờ 10 phút ngày 19/02/2020, tại khu vực tổ 3, khu 1, phường T, thành phố Uông Bí, Phùng Công C đang có hành vi tàng trữ trái phép là 0,374 gam (không phẩy ba bảy tư gam) ma túy loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an thành phố Uông Bí bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.

Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện lỗi cố ý, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh bị cáo theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

2.2 Về hình phạt:

Về hình phạt chính: Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng mức hình phạt cao nhất được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là 05 năm tù nên hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và có mức nguy hiểm cho xã hội lớn. Bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần vi phạm pháp luật, trong đó năm 2007 bị Tòa án kết án hình sự và phải chấp hành hình phạt tù nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, cải sửa bản thân để trở thành người có ích cho gia đình, xã hội mà nay còn tiếp tục phạm tội . Vì vậy, cần phải có hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo cũng như để tăng cường phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ:

- 01 phong bì niêm phong số 183/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh bên trong đựng ma túy thu giữ được của bị cáo, được hoàn lại sau giám định thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 125.000 đồng là tài sản thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại bị cáo.

- Đối với chiếc xe YAMAHA Sirius màu trắng – đen, biển kiểm soát 14Y1- 292.18 quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên đã giao trả lại cho gia đình quản lý theo quy định của pháp luật nên không đề cập giải quyết.

[5] Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên; 

QUYẾT ĐỊNH

 1.Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 , điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Phùng Công C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Phùng Công C 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 19/02/2020.

2.Về xử lý vật chứng: Áp dụng: khoản 1, điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 183/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh.

Trả lại bị cáo Phùng Công C số tiền 125.000 đồng (một trăm hai mươi lăm nghìn đồng) (Tình trạng, đặc điểm của vật chứng được mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng, bảng kê tiền tang vật ngày 19 tháng 5 năm 2020 giữa Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phíCăn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, danh mục án phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Phùng Công C phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 59/2020/HS-ST ngày 25/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:59/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;